Phương Nam Co LTD
© 29/3/2024 - Vietnam12h.com Application

Polysorbate 80 có trong thuốc gì? Pellet (Lansoprazol) bao tan ở ruột

Deshpande J.V. và cộng sự sử dụng phương pháp bồi dần từng lớp hỗn dịch Lansoprazol và tá dược lên pellet trơ, có cho thêm 4 tá dược ổn định là dinatri hydrophosphat, polysorbate 80, span 80 và magnesi carbonat. Pellet sau khi bào chế được bao màng tan ở ruột sử dụng polyme methacrylat loại C, thử nghiệm hòa tan 2 giờ trong 500 ml dung dịch HCl 0,1 N và 30 phút trong đệm phosphat pH 6,8 với thiết bị giỏ quay, kết quả cho thấy công thức đạt yêu cầu Dược điển Mỹ là không quá 10 % Lansoprazol bị hòa tan trong môi trường acid sau 2 giờ và trên 80 % Lansoprazol giải phóng trong môi trường đệm phosphat pH 6,8 chỉ sau 30 phút. Đánh giá về khả năng kháng acid và giải phóng dược chất của màng bao, tác giả nhận thấy với màng bao Eudragit loại C, hỗn dịch bao được điều chỉnh pH tới 5,5 thì khả năng kháng acid tốt hơn và giải phóng dược chất, tá dược polysorbate 80 sử dụng bào chế cao hơn so với màng bao được bảo vệ với HPMC và bao tiếp bằng Eudragit ở pH 3,0 ở cùng một tỷ lệ màng bao tan ở ruột. Công thức sau khi bào chế xong được thử độ ổn định ở điều kiện 40°C, độ ẩm 75 %. Kết quả cho thấy các công thức có khả năng giải phóng Lansoprazol cao (trên 90 %) và ổn định trong 3 tháng [110].

Pasic M. nghiên cứu về ảnh hưởng của loại và tỷ lệ màng bao đối với độ ổn định của pellet Lansoprazol bao tan ở ruột. Sử dụng màng bao Shellac với các tỷ lệ từ 10 - 20 %. Kết quả thử nghiệm hòa tan trong hai môi trường acid HCl pH 1,2 và đệm phosphat pH 6,8 cho thấy màng bao có tỷ lệ Shellac càng cao thì khả năng bảo vệ Lansoprazol trong môi trường acid tốt hơn nhưng lại làm chậm khả năng giải phóng dược chất, tá dược polysorbate 80, span 80 trong thuốc trong môi trường đệm pH 6,8. Mặt khác không có pellet bao nào cho kết quả giải phóng dược chất hoàn toàn trong môi trường đệm phosphat pH 6,8 (trên 80 % Lansoprazol được giải phóng sau 60 phút). Với tỷ lệ Shellac thấp nhất được sử dụng (10 %), dược chất giải phóng nhanh trong môi trường đệm pH 6,8 nhưng vẫn giải phóng trong môi trường acid. Theo nghiên cứu của Pearnchob N. và cộng sự, thành phần màng bao có 10 % Shellac vừa có tác dụng chống ẩm tốt hơn màng bao HPMC ở cùng một tỷ lệ nên có tác dụng bảo vệ tốt và vừa có khả năng che vị mặc dù chỉ cần bao ở tỷ lệ thấp [111]. Sử dụng màng bao Eudragit 30D-55 tác giả nhận thấy lượng Lansoprazol giải phóng trong môi trường acid HCl pH 1,2 và môi trường đệm phosphat pH 4,5 sau 60 phút là dưới 5 %, trong môi trường pH 6,8 là từ 96 - 100 % đạt yêu cầu của Dược điển Mỹ [8].

He W. và cộng sự nghiên cứu ảnh hưởng của natri carbonat tới độ ổn định và khả năng giải phóng của pellet Lansoprazol bao tan ở ruột. Pellet trơ được bao hỗn dịch dược chất và tá dược dính có thêm chất ổn định là natri carbonat. Sau đó bao thêm 3 lớp: Màng bao tá dược kiềm (natri carbonat), màng bao bảo vệ bằng HPMC và màng bao tan ở ruột bằng Eudragit L30D-55, sử dụng thiết bị tầng sôi Wurster. Pellet bao tan ở ruột được đánh giá về khả năng kháng dịch vị và tốc độ giải phóng hoạt chất cũng như độ ổn định. Kết quả cho thấy sự có mặt của natri carbonat đã cải thiện đáng kể khả năng kháng dịch vị của pellet, chỉ có 1 % hoạt chất giải phóng sau 60 phút. Tỷ lệ natri carbonat tương quan tỷ lệ thuận với khả năng kháng dịch vị. Các mẫu nghiên cứu đều có tốc độ giải phóng hoạt chất trong môi trường acid tương đối hằng định sau 5 tháng bảo quản ở điều kiện 400C, độ ẩm 75 %, điều này chứng tỏ vai trò quan trọng của tá dược kiềm với chức năng là chất ổn định trong công thức màng bao. Về khả năng giải phóng dược chất trong môi trường đệm phosphat pH 6,8, kết quả nghiên cứu cho thấy tỷ lệ natri carbonat càng tăng thì tốc độ giải phóng dược chất càng giảm do tá dược này làm tăng đặc tính không thân nước của màng bao nên ảnh hưởng đến khả năng giải phóng dược chất mặc dù bản chất của nó là một chất thân nước. Tuy nhiên các công thức bào chế có sử dụng natri carbonat đều đáp ứng được yêu cầu của Dược điển Mỹ (trên 80 % Lansoprazol được giải phóng chỉ sau 40 phút). Các tác giả cũng nhận thấy tốc độ giải phóng Lansoprazol tăng lên sau thời gian bảo quản, trái ngược với một số nghiên cứu trước đây cho rằng độ ẩm càng cao thì tốc độ giải phóng dược chất càng giảm. Điều này được giải thích là do natri carbonat trong quá trình bảo quản đã tham gia vào thành phần của màng bao tan ở ruột và làm kéo dãn cấu trúc của màng polyme [2].

Pachabhai D. và cộng sự nghiên cứu bào chế pellet Lansoprazol bao tan ở ruột. Bào chế pellet Lansoprazol bằng phương pháp bồi dần với dung môi nước, tá dược dính là HPMC E5. Sau khi được bao cách ly, tiến hành bao tan ở ruột cho pellet với Eudragit L30D-55. Kết quả cho thấy công thức sử dụng Eudragit L30D-55 với lượng thấp nhất là 30 mg/399 ml dung môi (chiếm khoảng 7,5 % khối lượng dịch bao), tá dược polysorbate 80, span 80 và các tá dược khác cùng khối lượng tương đương thì cho pellet có khả năng kháng acid tốt nhất (0,71 % sau 60 phút trong môi trường HCl 0,1 N) và giải phóng dược chất cao nhất ( 97,87 % sau 60 phút tiếp theo trong môi trường đệm phosphat pH 6,8). Pellet bao tan ở ruột ổn định sau 3 tháng theo dõi ở điều kiện lão hóa cấp tốc [112].

Petchimuthu S. và Narayanan N. nghiên cứu bào chế pellet Lansoprazol bao tan ở ruột bằng phương pháp sử dụng thiết bị tầng sôi. Sử dụng L-HPC (L-hydroxypropyl cellulose) hoặc HPC GF là tá dược dính để bồi dần dịch có chứa dược chất lên nhân trơ. Tiếp tục bao cách ly pellet Lansoprazol với polyme là HPC LF hoặc HPMC E5 và bao tan ở ruột bằng Kollicoat MAE30DP. Kết quả cho thấy công thức sử dụng L-HPC là tá dược dính để bồi dần pellet nhân, HPC LF là polyme bao cách ly và Kollicoat MAE30DP là polyme bao tan ở ruột bao tăng 20 % khối lượng có khả năng kháng acid tốt (2,8 % sau 60 phút trong môi trường HCl 0,1 N) và giải phóng dược chất đạt 102 % sau 60 phút trong môi trường đệm pH 6,8. Độ hòa tan tương đương với viên đối chiếu Prevacid® 30 mg. Pellet bào chế được ổn định sau 3 tháng theo dõi ở điều kiện lão hóa cấp tốc [113].

Singh S.K. và cộng sự nghiên cứu bào chế micropellet chứa Lansoprazol bao tan ở ruột. Pellet Lansoprazol được bào chế bằng phương pháp bồi dần với dung môi là dung dịch natri hydroxyd, sử dụng tá dược dính HPMC E5, polysorbate 80 hoặc PVP. Sau đó bao tan trong ruột bằng dung dịch Acrycoat L30D. Kết quả nghiên cứu cho thấy công thức pellet Lansoprazol với lượng natri hydroxyd và HPMC E5 (so với dược chất có tỷ lệ lần lượt là 12 % và 60 %) được bao tăng 60 % khối lượng pellet sau khi bao cách ly bằng HPMC E5 tăng 12% khối lượng pellet Lansoprazol có khả năng kháng acid dịch vị tốt nhất và độ hoà tan trong môi trường đệm phosphat pH 6,8 cao nhất (89,24 %) sau 60 phút. Pellet bao tan ở ruột ổn định ở điều kiện lão hoá cấp tốc sau 3 tháng [114].

Venkateswarlu P. nghiên cứu bào chế pellet Lansoprazol bao tan ở ruột bằng phương pháp bồi dần, sử dụng HPC là tá dược dính, tá dược polysorbate 80, polyme bao tan ở ruột là Eudragit L30 D55. Kết quả cho thấy pellet bao tan ở ruột chỉ giải phóng 3,6 % dược chất trong môi trường HCl 0,1 N, trong khi đó ở môi trường đệm phosphat pH 6,8 thì Lansoprazol giải phóng tới 86 %. So sánh động học giải phóng của pellet bao tan ở ruột, tác giả nhận thấy dược chất giải phóng theo mô hình động học bậc 1. Công thức tối ưu ổn định sau 3 tháng bảo quản ở điều kiện thực và lão hóa cấp tốc [115].

Young C. và cộng sự bào chế pellet Lansoprazol bằng phương pháp bồi dần, tiến hành bao tan ở ruột bằng Acryl EZE (là sản phẩm thương mại có thành phần chính là Eudragit L100-55, ngoài ra còn có thêm chất hóa dẻo, chất chống dính và titan dioxyd) tăng 26 % khối lượng pellet. Đánh giá khả năng giải phóng dược chất trong môi trường acid HCl pH 1,2 hoặc môi trường đệm phosphat pH 4,5, sau đó tiếp tục đánh giá khả năng giải phóng dược chất trong môi trường đệm phosphat pH 6,8. Kết quả cho thấy không có Lansoprazol giải phóng ở cả 2 môi trường pH 1,2 và pH 4,5 sau 60 phút trong khi khoảng 80 % Lansoprazol giải phóng trong môi trường pH 6,8 sau 15 - 30 phút [116].

Phương Nam đã khảo sát màng bao tan ở ruột cho pellet Lansoprazol được bào chế bằng phương pháp đùn - tạo cầu với polyme là Eudragit L100, sử dụng chất hoá dẻo là triethyl acetat. Kết quả khảo sát độ dày màng bao cho thấy khi tăng lần lượt 12,3 %, 12,5 % và 16,1 % khối lượng pellet thì đều không đạt yêu cầu của Dược điển Mỹ về khả năng giải phóng dược chất trong môi trường đệm phosphat pH 6,8 sau 60 phút, mẫu đạt kết quả cao nhất chỉ là 77,7 %. Pellet bao tan ở ruột được theo dõi ổn định sau 1 tháng bảo quản ở điều kiện thực và điều kiện lão hoá cấp tốc [117].

Việc bào chế được công thức chứa pellet Lansoprazol kết hợp tá dược polysorbate 80, span 80 có độ ổn định cao, sử dụng công thức bao với tỷ lệ màng bao thích hợp để bảo vệ dược chất không bị hòa tan trong môi trường acid và giải phóng hoàn toàn dược chất trong môi trường đệm là hết sức khó khăn, các kết quả nghiên cứu vẫn còn nhiều vấn đề chưa thống nhất và còn nhiều tranh cãi. Bên cạnh mục tiêu bào chế được pellet Lansoprazol bao tan ở ruột đạt chỉ tiêu về độ hòa tan của Dược điển Mỹ (là chỉ tiêu được nhiều tác giả áp dụng), các nghiên cứu đều tìm cách nâng tối đa khả năng kháng acid cũng như giải phóng Lansoprazol cao nhất trong môi trường đệm pH 6,8. Phương pháp bồi dần được nhiều tác giả áp dụng trong bào chế pellet Lansoprazol trước khi tiến hành bao các lớp tiếp theo, sau đó tiến hành bao cách ly và bao tan ở ruột. Việc xây dựng công thức pellet Lansoprazol bằng phương pháp bồi dần hay đùn - tạo cầu cũng như công thức màng bao cách ly có ý nghĩa lớn liên quan đến độ ổn định và độ hòa tan của pellet bao tan ở ruột. Kết quả nghiên cứu của các tác giả trên đều cho thấy tỷ lệ màng bao tan ở ruột là một thông số quan trọng, với tỷ lệ thấp có thể gây phân hủy dược chất trong môi trường acid nhưng với tỷ lệ cao thì kéo dài quá trình giải phóng dược chất.