Phương Nam Co LTD
Cung cấp polysorbate (tween) Korea
© 28/3/2024 - Vietnam12h.com Application

Artemisinin (ART) là gì


Bộ phận dùng là lá được thu hái ở cây sắp ra hoa, tốt nhất vào mùa hè, phơi nắng nhẹ hoặc sấy 30 oC – 40 oC đến khô (độ ẩm không quá 13%). Hàm lượng artemisinin thay đổi tùy theo điều kiện thổ nhưỡng. Tính theo dược liệu khô, thanh hao Trung Quốc có hàm lượng artemisinin từ 0,01% – 0,5%, cây trồng tại Việt Nam có tỉ lệ artemisinin từ 0,4% – 0,6%.

Artemisinin được phân lập vào năm 1972, là hoạt chất có nhóm peroxid nội rất ít gặp trong tự nhiên. Nguồn cung cấp artemisinin hiện nay chủ yếu vẫn từ dược liệu. Phương pháp tổng hợp, bán tổng hợp và sinh tổng hợp Artemisinin đã được nghiên cứu nhưng chưa được ứng dụng vào sản xuất vì quy trình phức tạp và giá thành rất cao.

Tên khoa học: (3R,5aS,6R,8aS,9R,12S,12aR)-octahydro-3,6,9-trimethyl-3,12-epoxy- 12H-pyrano[4,3-j]-1,2-benzodioxepin-10(3H)-on

Tên gọi khác: Artemisin; arteannuin; QHS; qinghaosu; thanh hao tố, quinghaosu Công thức phân tử: C15H22O5, khối lượng phân tử: 282,3

Tính chất vật lý: Artemisinin có tinh thể hình kim không màu hoặc bột màu trắng óng ánh, không mùi. Thực tế không tan trong nước, tan trong methanol, tá dược tween polysorbate 80 và ethanol, rất tan trong dicloromethan, dễ tan trong aceton và ethylacetat. Năng suất quay cực [𝛼]20𝑜từ + 75o đến + 78o (dung dịch 1,0% trong ethanol). Artemisinin có nhiệt độ nóng chảy từ 151 oC – 154 oC, bền vững với nhiệt, không bị phân hủy ở nhiệt độ cao hơn nhiệt độ nóng chảy nên có thể tinh chế bằng phương pháp thăng hoa.

Tính chất hóa học: Artemisinin là sesquiterpenlacton có nhóm peroxyd nội bị thủy phân bởi acid hoặc kiềm mạnh làm mất hoạt tính kháng ký sinh trùng (KST) sốt rét.

Tác dụng dược lý: Artemisinin tác dụng trực tiếp lên KST sốt rét ở giai đoạn thể phân liệt trong hồng cầu, có hiệu lực cao đối với P. falciparum kể cả chủng kháng cloroquin, không bị đề kháng chéo với cloroquin. Artemisinin có thời gian sạch KST trong máu nhanh, có thể loại trừ và cải thiện triệu chứng nhanh hơn cloroquin, kể cả với chủng đã kháng cloroquin hoặc đa đề kháng. Artemisinin diệt giao bào P. falciparum, làm ngăn chặn quá trình lây lan. Do không tác dụng đối với giai đoạn phát triển ở gan của KST nên Artemisinin không được dùng dự phòng. Tỉ lệ tái phát trong vòng một tháng khá cao do thời gian bán thải ngắn.

Cơ chế tác dụng: Cầu peroxyd nội trong cấu trúc của Artemisinin đóng vai trò quyết định đối với tác dụng diệt KST sốt rét. Các nghiên cứu chứng minh rằng sự khử cầu peroxyd xúc tác bởi hemin kích hoạt quá trình sản sinh gốc tự do từ cầu peroxyd. Gốc tự do tạo thành phá hủy màng tế bào của KST thông qua quá trình akyl hóa. Môi trường nội bào của KST trong hồng cầu vốn giàu hemin, do thu nhận được từ sự phân giải protein của tế bào ký chủ. Điều này lý giải vì sao Artemisinin có tác dụng rất chọn lọc trên KST.

Dược động học: Artemisinin hấp thu nhanh, nồng độ đỉnh trong huyết tương của đường uống là 1 giờ, tiêm bắp là 2 giờ. Artemisinin được phân bố đều đến các cơ quan, vượt qua hàng rào máu – não. Artemisinin liên kết mạnh với hồng cầu và protein huyết tương. Tỉ lệ liên kết với protein huyết tương ở người là 64%. Gan là nơi chuyển hóa chính của ART. Các chất chuyển hóa phân lập được trong nước tiểu là deoxyartemisinin, deoxydihydroartemisinin, dihydrodeoxyartemisinin và crystal – 7. Chúng không còn hoạt tính trên KST. Artemisinin thải trừ nhanh qua phân và một phần qua nước tiểu, phần lớn ở dạng đã chuyển hóa. 80% liều dùng đường uống được thải qua phân và nước tiểu trong 24 giờ. 68% liều tiêm tĩnh mạch được tìm thấy trong nước tiểu trong 24 giờ đầu và 95% được tìm thấy trong 72 giờ. Thời gian bán thải của Artemisinin rất ngắn, với đường uống là gần 4 giờ và tiêm bắp từ 3,85 – 5,38 giờ.

Chỉ định: Artemisinin được dùng trong điều trị sốt rét cấp tính, sốt rét không biến chứng do P. falciparum, đặc biệt là sốt rét kháng cloroquin. Trước đây, Artemisinin có thể dùng đơn độc hoặc phối hợp với một số thuốc điều trị sốt rét khác. Hiện nay, WHO khuyến cáo dùng phối hợp với mefloquin, primaquin.

Độc tính: Artemisinin có độc tính cấp thấp. Trên chuột nhắt trắng, LD50 đường uống là 4,2 g/kg và tiêm bắp nhũ dịch dầu là 3,8 g/kg. Ở liều cao, thử nghiệm trên động vật, Artemisinin và dẫn chất có độc tính trên thần kinh. Tuy nhiên, độc tính này hiếm khi xảy ra trên người. Nghiên cứu chứng minh rằng Artemisinin an toàn và hiệu quả, tương đối an toàn cho phụ nữ mang thai, trẻ em, người bệnh tim, gan, thận mãn tính.

Tương tác thuốc: Phối hợp Artemisinin với mefloquin, tetracyclin, primaquin trên chủng kháng thuốc sẽ có tác dụng cộng lực. Phối hợp với sulfamid, sulfon, các chất chống oxi hóa sẽ làm giảm tác dụng của ART.

Bảo quản: Đựng trong lọ kín, để nơi mát, tránh ánh sáng.

Dạng bào chế: Artemisinin được bào chế dưới dạng viên nén (250 mg) và thuốc đạn (250 mg và 500 mg) [4].