Phương Nam Co LTD
Thi công xây dựng phần thô
© 18/4/2024 - Vietnam12h.com Application
 Những lý luận đô thị Hiện đại đầu thế kỷ XX.

                Những lý luận vềđô thị lý tƣởng  không tưởng của Charles Fourier, Robert Owen và William Moris.

                -Một đô thị theo mô hình của Charles Fourier bao gồm ba khu vực hành chính, công nghiệp và nông nghiệp tuần tự từ trong ra ngoài. Đơn vị cơ bản của thành phố là Phalanstère (cung điện xã hội) cao ba tầng, các khối nhà có các hành lang kín nối với nhau, có sưởi ấm trong mùa đông và có khả năng thông gió vào mùa hè. Các cánh nhà ở giữa được dùng để cho người dân và dùng cho các công trình có chức năng yên tĩnh, các cánh nhà bên phải dùng làm nơi tiếp khách, các cánh nhà bên trái là các phân xưởng gây tiếng ồn được tập trung riêng. Trong Cung điện xã hội còn bố trí nhà ăn, nơi vũ hội, nơi họp hành...

                -Các "Đơn vịđô thị" của Robert Owen có dạng một hình vuông, đặt giữa các vùng đất nông nghiệp. Toà nhà trung tâm của "Đơn vịđô thị" này là bếp nấu và các nhà ăn tập thể, phía bên phải là toà nhà dùng làm nhà trẻ, nhà văn hoá, giảng đường…, phía bên trái có toà nhà thư viện, trường học… Toà nhà lớn bao quanh hình vuông có bốn cạnh với ba cạnh là nhà ở gia đình, cạnh thứ tư dùng làm nhà ngủ cho trẻ em lớn hơn ba tuổi với các phòng bảo mẫu. Bên goài nhà là vườn, tiếp đến là các xưởng sản xuất cơ khí, kho thiết bị nông nghiệp và xa nhất là các trại xen kẽ với nhà máy... Những "Đơn vịđô thị" này, giống như những công xã nông thôn, còn được gọi là những "Làng Tân hoà hiệp", có thể sản xuất để tự cung tự cấp theo chếđộ phân phối.

                - William Moris chủ trương phục hồi lại nền sản xuất mỹ nghệ thủ công, mong muốn xây dựng một đời sống xã hội như thời Trung thế kỷ yên bình. Theo William Moris, đất đai phải được hoàn toàn phi đô thị hoá, tất cả các sự tập trung dân cư phải được ngăn chặn, phải làm sao cho các thành phố lớn biến mất và xây dựng nhiều thành phố nhỏ. Nhà cửa phải được xây dựng phân tán, đặt cách xa nhau nhờ vậy sự tiếp cận với thiên nhiên sẽ tốt hơn.

                Quan niệm về xây dựng đô thị của Camilo Sitte.

                Camilo Sitte là người đại diện cho nền quy hoạch đô thị hữu cơ có tiếng vang nhất định ở nhiều nước châu Âu vào cuối thế kỷ XIX. Trong cuốn sách "Nghệ thuật xây dựng đô thị" (1899) ông đã chỉ trích thẳng thừng "chủ nghĩa cổđiển" và "hình dáng quy tắc" thường thấy đương thời thay vào đó là một cơ cấu đô thị có sự hài hoà và linh hoạt như một cơ thể sống. Ông viết: "Một đồ án đô thị là một tác phẩm nghệ thuật của kiến trúc, nên không thể do những uỷ ban hay những bàn giấy tạo ra". Camilo Sitte nhiệt liệt cổđộng cho kiểu mặt bằng đô thị không quy tắc, uốn lượn tự do như các đô thị châu Âu thời Trung cổ. Ông nhấn mạnh vai trò của điểm nhìn, tầm nhìn, đối tượng quan sát và hiệu quả nghệ thuật chỉ xuất hiện khi cảnh quan đô thị luôn luôn biến hoá, thay đổi.

                Học thuyết Thành phố vƣờn của Ebenezer Howard.

                -Vào cuối thế kỷ XIX, Ebenezer Howard lần đầu tiên đã nêu ra một học thuyết khoa học quy hoạch đô thị Hiện đại: lý thuyết về Thành phố vườn. Thành phố vườn được xây dựng trên ba nguyên tắc cơ bản sau: (1) Kiểm soát sự bành trướng đô thị và hạn chế việc tăng dân số lao động đô thị, (2) Loại trừ nạn đầu cơđất, (3) Điều hoà các hoạt động sinh hoạt.

                -Hệ thống Thành phố vườn của Howard bao gồm 6 thành phố vườn (mỗi thành phố có 32 000 dân) bao quanh một thành phố mẹ (có 58 000 dân). Mỗi Thành phố vườn được xây dựng trên một khu đất 400 ha, với 2000 ha vòng ngoài là khu cây xanh và đất dùng vào mục đích nông nghiệp. Mỗi Thành phố vườn đó hình thành bởi một loạt các vòng tròn đồng tâm và được chia đều bởi các đại lộlớn. Howard viết: "Sáu đại lộ lớn, mỗi đại lộ rộng 36 m, xuyên qua thành phố xuất phát từ trung tâm, chia thành phố thành 6 phần đều nhau là các khu ở. Ở trung tâm, một không gian vòng tròn khoảng 2,2 ha được dành cho một vườn hoa lớn. Các công trình công cộng được đặt quanh vườn hoa này như toà thị chính, phòng hoà nhạc, hội trường, thư viện, bảo tàng ... Quanh công viên trung tâm, tại nơi cắt qua các đại lộ bố trí các Cung thủy tinh hướng về phía công viên là nơi gặp gỡ cho công chúng vào lúc mưa gió. Đây cũng là nơi trưng bày và bán những sản phẩm thủ công nghiệp, tiến hành những dịch vụ thương nghiệp... Hình thức kiểu vòng tròn của nó sẽ phục vụ tiện lợi cho toàn thể dân chúng đô thị, từđây đến nhà ở xa nhất cũng chỉ có khoảng cách 550 m… Ở giữa bán kính 550 m nói trên lại có một đại lộ cây xanh vòng tròn rộng 128 m, là nơi đặt trường học, chỗ chơi trẻ em, nhà thờ... Các khu ởđược bố trí các nhà bếp công cộng, vệ sinh được bảo đảm nghiêm ngặt. Một tuyến xe lửa sẽđược chạy vòng ngoài để chở hàng đến các nhà máy, tránh được hiện tượng các xe tải chạy xuyên qua thành phố, các chất thải hữu cơđược dùng vào nông nghiệp, không khí được bảo đảm trong lành, điện được dùng rộng rãi... Vành ngoài của Thành phố vườn được đặt những nhà máy, xí nghiệp, không độc hại. Mỗi Thành phố vườn là một đơn vị tự trị, nối liền với thành phốmẹ bằng 6 đường xe lửa và bản thân các Thành phố vườn cũng được nối liền với nhau bởi một tuyến xe lửa chạy vòng tròn.  Khi Thành phố vườn đủ lớn như quy mô đã nói, một thành phố mới sẽ ra đời và cứ nối tiếp như vậy.

                Thành phố tuyến của Soria y Mata.

                -Soria y Mata có một sự say mê đặc biệt đối với vấn đề giao thông cũng như các vấn đề khác của đô thị nên vào năm 1882, ông đã đề ra mô hình Thành phố tuyến như một hình thức đô thị tương lai. Mô hình Thành phố tuyến của Mata là một hình thức phân bố dân cư theo một dải hẹp rộng 500 m và có thể kéo dài tuỳ theo sự cần thiết. Mata chủ trương giao thông vận tải, đặc biệt là đường sắt, là nhân tố quyết định sự hình thành đô thị. Trong khoảng 500 m rộng kéo dài, tuỳ sựcần thiết sẽđặt đường xe chạy, đường cấp nước, đường dây điện... Hai bên là các khu ở, cứ cách một đoạn là có một cơ cấu quản lý thị chính. Thành phố tuyến sẽ là phương cách hữu hiệu để nối liền các điểm dân cưđô thị.

                -Sơđồ nguyên tắc của Thành phố tuyến của Soria y Mata bao gồm các thành phần sau đây: tuyến giữa là đường giao thông chính rộng 40 mét, trên trục này có đường sắt điện khí hoá; hai dải đất hai bên dành để xây dựng nhà ở (dải đất đủ rộng để chia ra 7 lô đất hình chữ nhật theo chiều sâu cho 7 dãy nhà), các đường thẳng góc với đường chính rộng 20 mét, các nhà có tỷ lệ diện tích xây dựng trên diện tích khu đất là không lớn hơn 20%, mỗi nhà có vườn hoa riêng và chỉ xây dựng chỉ 2-3 ba tầng với các kiểu đa dạng khác nhau; hai dải ngoài cùng hai bên là dành cho cây xanh và đất nông nghiệp.

                Thành phố công nghiệp của Tony Granier.

                Tony Granier là người đã đưa ra nhiều đề nghị cụ thể, chính xác cho một khái niệm đô thị phù hợp với thời kỳ mới: Thành phố công nghiệp. Mô hình này có khả năng thoả mãn được nhu cầu của con người trong thời đại công nghiệp hoá, chú ý đến cấu trúc cân đối mới thành phố trên quan điểm kỹ thuật tiến bộ, chú ý đến cái đẹp quần thể, chú ý đến ảnh hưởng của các phương tiện giao thông hiện đại. Thành phố công nghiệp theo Tony Granier có các chức năng sau đây: ở, làm việc, nghỉ ngơi, văn hoá và giao thông.

 

                Thành phốđược dự kiến cho 35 000 dân, đặt ở phía Tây và phía Nam của thành phố cũ. Khu vực ởở phía Tây, khu văn hoá thể dục thể thao ở phần giữa, ởvùng biên của khu ởđặt các trường kỹ thuật và nghệ thuật, ở phía Bắc đặt bệnh viện trung tâm. Rải rác trong khu ở có bố trí các trường học phổ thông. Khu vực phía Nam thành phố cũđặt khu công nghiệp. Một tuyến đường xe lửa phân cách thành phố mới, thành phố cũ với khu công nghiệp, trên đó có bố trí nhà ga chính và nhà ga hàng hoá. Khu công nghiệp đặt gần sông với những bến cảng lớn tạo điều kiện thuận tiện cho việc chuyên chở hàng hoá. Tony Granier đã bố trí cả cây xanh cho cả khu công nghiệp. Các khu nhà ở có mặt bằng tự do, dùng cửa kính băng ngang, hòa lẫn trong không gian cây xanh với những đường đi bộ. Thành phốđược nối liền với nhau bằng xe điện, khu dân cư chính trải dài thành một tuyến 6 km rộng 600 m, có đủđất đai dự trữ cho cả khu nhà lẫn khu công nghiệp, có đập thuỷđiện cung cấp điện cho toàn thành phố, các trường học được tổ chức theo kiểu " trường học xanh" với nhiều cây cối, thảm cỏ...