Nếu ở trong một môi trường lý tưởng, sẽ luôn có đầy đủ các kỹ thuật xử lý rủi ro của các định chế tài chính khác nhau (như thị trường tài chính, các hợp đồng bảo hiểm) để các cá nhân tùy ý lựa chọn chính xác rủi ro nào nên giữ lại, rủi ro nào họ muốn chuyển giao. Trong đời sống thực tế, người ta cũng có thể loại bỏ hoàn toàn các rủi ro về thất nghiệp, hay rủi ro giảm giá trị bất động sản mà mình đang nắm giữ, nhưng dĩ nhiên phải chấp nhận bỏ ra một số chi phí nhất định. Do đó, cái thế giới thực này cho thấy những hạn chế về mặt lý thuyết của hệ thống tài chính trong việc phân bổ rủi ro cho các chủ thể khác nhau trong xã hội.
Từ nhiều thế kỷ nay, các tổ chức kinh tế và các hợp đồng có giá trị về mặt pháp lý đã rất phát triển, tạo thuận lợi cho việc phân bổ rủi ro, như tăng khả năng phân tán đầu tư và tạo ra sự chuyên môn hóa cao trong quản lý rủi ro. Trong đó có thể kể đến sự góp mặt của các công ty bảo hiểm hay thị trường kỳ hạn là những nhân tố chủ yếu thực hiện các mục tiêu này.
Phân bổ rủi ro là một cơ sở quan trọng cho sự phát triển của các công cụ tài chính. Chẳng hạn, cổ phiếu và trái phiếu có các mức độ rủi ro khác nhau. Bằng cách phân chia đầu tư vào trái phiếu hay đầu tư vào cổ phiếu (hoặc kết hợp đầu tư vào cả hai loại theo cơ cấu khác nhau), các nhà đầu tư có thể lựa chọn loại rủi ro và mức độ rủi ro mà họ sẵn sàng chấp nhận.
Từ hai thập kỷ nay, người ta nhận thấy sự phát triển với nhịp độ tăng rất mạnh của các công nghệ mới trong quản lý rủi ro, do thay đổi cả cung và cầu về phương tiện quản lý rủi ro. Về cung, những tiến bộ trong lĩnh vực viễn thông, tin học và lý thuyết tài chính đã cho phép giảm chi phí trong việc phát triển các phương tiện quản lý rủi ro, cả về vấn đề phân tán nói chung cũng như sự chuyên môn hóa. Song song với nó, cầu về các phương tiện quản lý rủi ro cũng tăng lên do sự gia tăng các mức biến động về tỷ giá hối đoái, về lãi suất và giá cả của các yếu tố nguyên vật liệu sản xuất. Như vậy, người ta có thể hiểu về xu thế phát triển nhanh chóng của các hợp đồng kỳ hạn, các quyền chọn và các hợp đồng swap (hợp đồng hoán đổi) từ những năm 70 để đáp ứng cho yêu cầu giảm chi phí và tăng cầu của các nhân tố đó trên thị trường tài chính.