Phương Nam Co LTD
Cung cấp chất hoạt động bề mặt, dầu bôi trơn Korea
© 28/3/2024 - Vietnam12h.com Application
Cơ chế vận chuyển chất dinh dưỡng vi sinh vật

Những phân tử protein vận chuyển sắp xếp trong màng liên kết với các phân tử chất hòa tan rồi chuyển chúng vào bề mặt bên trong của màng: từ đây các phân tử hòa tan được chuyển vào trong tế bào chất. Kiểu khuếch tán này được gọi là kiểu khuếch tán xúc tiến. Các phân tử protein vận chuyển nói trên được gọi là protein thấm-permease. Bản chất protein của permease được khẳng định bởi các dẫn chứng sau:

Việc tổng hợp permease thường được cảm ứng hoặc được kiềm chế như tổng hợp một số enzyme.

Chloramphenicol ức chế việc tổng hợp protein cũng ức chế quá trình tổng hợp permease.

Hàng loạt các protein màng mang tính chất của permease đã được tách ra.

Tế bào vi sinh vật có khả năng tổng hợp một lượng lớn các permease, các acid amine và hydrate  carbon. Tuy nhiên nếu hệ thống vận chuyển này đều được tổng hợp thường xuyên theo kiểu cấu trúc thì tế bào sẽ phí phạm về vật chất và năng lượng. Do đó, chúng ta không lấy làm lạ là, nhiều permease được tổng hợp theo kiểu cảm ứng hoặc kiềm chế. Ngoài ra protein thấm còn có enzyme vận chuyển.

Sự vận chuyển các chất dinh dưỡng nhờ permease có thể theo cơ chế thụ động (không cần năng lượng) hoặc chủ động (cần năng lượng tế bào).

Theo cơ chế vận chuyển thụ động thì chất hòa tan liên kết thuận nghịch vào một vị trí trên phân tử permease nằm ở bên trong màng (có thể ở các lỗ của màng). Phức hợp chất hòa tan được vận chuyển theo cả hai phía của màng nhờ sự chênh lệch nồng độ của một chất nào đó, nghĩa là sự vận chuyển diễn ra theo kiểu ''xuôi dòng''. Sự vận chuyển thụ động đã được chứng minh ở một số vi sinh vật.

Tuy nhiên vi sinh vật có khả năng tích luỹ một số chất với nồng độ cao hơn nhiều so với bên ngoài. Chẳng hạn nồng độ của K+ bên trong tế bào có thể cao gấp hàng ngàn lần so với bên ngoài. Để đảm bảo trung hòa điện tử, tế bào cũng phải thải ra ngoài các ion H+, hay Na+. Thêm vào đó người ta còn thấy ở các màng tế bào vi khuẩn có hoạt tính của ATP - ase là men có liên quan đến việc vận chuyển các chất. Như vậy trong tế bào vi sinh vật ngoài cơ chế vận chuyển thụ động còn tồn tại cơ chế vận chuyển chủ động nhờ permease. Sự vận chuyển này được tiến hành bất chấp gradien nồng độ nghĩa là theo kiểu ''ngược dòng'' năng lượng tiêu thụ có lẽ do ATP (hình thành trong mesosom hoặc màng tế bào chất) cung cấp.

Trong mô hình vận chuyển trên thì cùng một phân tử permease có thể đảm nhận cả chức vận chuyển chủ động lẫn chức vận chuyển thụ động (tùy theo sự có mặt hay vắng mặt của ATP).

Ngày  nay,  người  ta  đã  phân  lập  được  hàng  loạt  protein  vận chuyển trong các loài vi sinh vật. Giống như enzime, chúng có tính đặc hiệu cơ chất khác nhau. Một số có tính đặc hiệu hầu như tuyệt đối.

Chẳng hạn như permease của galactose ở E. coli chỉ vận chuyển galactose. Các permease của đường và acid amine khác thể hiện tính đặc hiệu yếu hơn đối với các chất hòa tan. Điều đáng chú ý là, trong vi khuẩn sự vận chuyển chủ động của đường, phụ thuộc vào các quá trình phosphorryl hóa.

Năm 1964 Kundig phân lập được một hệ thống phosphortransferase bao gồm hai men (E1 và E2) và một protein vận chuyển bền nhiệt (HPr) có khối lượng phân tử thấp. Các thành phần protein của hệ thống này đã được thuần khiết và phản ứng diễn ra hai bước:

Trước hết E1 chuyển phosphate từ   phosphorenolpiruvat (PEP)

đến HPr:

HPr +PEP → HPr-P + Piruvat

Sau đó E2 chuyển phosphate từ HPr-P đến C6 của đường đơn.

E1 là chung cho nhiều loại đường nhưng E2 lại đặc hiệu cho từng loại đường. Nghĩa là một đột biến nào đó ảnh hưởng đến việc tổng hợp E1 sẽ dẫn đến mất khả năng vận chuyển nhiều loại đường. Trái lại với đột biến như thế với E2 chỉ ảnh hưởng đến sự vận chuyển một loại đường.

 

Hình 4.5. Cơ chế vn chuyn nhóm


Link Đọc file PDF hoặc tải file pdf về máy tính