Phương Nam Co LTD
Cung cấp chất hoạt động bề mặt, dầu bôi trơn Korea
© 25/4/2024 - Vietnam12h.com Application

PLGA và Polyethylene glycol sử dụng chất nhũ hóa tween 80


Thông qua hình ảnh SEM ở hình 3.20 cho thấy đặc điểm của Tiểu phân nano với hình cầu, kích thước tương đối nhỏ, phân bố đồng đều phù hợp với dữ liệu của phương pháp DLS. Tính chất Tiểu phân nano gồm nồng độ và loại chất nhũ hóa tween polysorbate 80, nồng độ polyme, nồng độ dược chất

Phân tích phổ XRD ở hình 3.21 chứng tỏ artesunat đã chuyển từ dạng tinh thể sang dạng vô định hình trong quá trình bào chế Tiểu phân nano [126]. Các đỉnh nhiễu xạ đặc trưng của artesunat (được đánh dấu (*) ở hình 3.20) đều phù hợp với những ghi nhận trong tư liệu [126]. Như hình 3.21, những đỉnh đỉnh nhiễu xạ nhọn, riêng biệt của artesunat không còn tồn tại trên phổ XRD của Tiểu phân nano chứa ART. Các kết quả này chỉ ra rằng các cấu trúc tinh thể của artesunat đã bị phá vỡ, dẫn đến sự chuyển đổi của artesunat từ dạng tinh thể sang dạng vô định hình hoặc dạng thay thế là hệ phân tán phân tử [126].

Sự có mặt của Polyethylene glycol trên bề mặt của Tiểu phân nano ART/PLGA-Polyethylene glycol, sử dụng chất mang PLGA-PEG bằng phương pháp nhũ hóa polysorbate 80 và khuếch tán dung môi,  đã được chứng tỏ qua sự giảm về giá trị tuyệt đối của thế zeta và sự xuất hiện pic đặc trưng của các proton của nhóm methylen của chuỗi PEG trên phổ 1H-NMR trong dung môi CDCl3 (Hình 3.23). Ngoài ra, phổ 1H-NMR của Tiểu phân nano (với KTTP ở hình 6 - Phụ lục 2) trong dung môi D2O cho thấy pic với cường độ mạnh đặc trưng của nhóm methylen, điều này chứng tỏ cấu trúc nhân - sợi (core-corona) với chuỗi Polyethylene glycol thân nước ở bên ngoài Tiểu phân nano ART/PLGA-PEG [61]. Mặc dù có sự giảm về giá trị tuyệt đối của thế zeta tuy nhiên với cấu trúc nhân - sợi đã làm tăng hiệu ứng cản trở không gian giúp tránh hiện tượng kết tụ của các TP nano.

Về quá trình giải phóng dược chất (tính chất tá dược tween 80), sự giải phóng dược chất từ Tiểu phân nano được chia làm hai giai đoạn với giai đoạn giải phóng nhanh ban đầu và giai đoạn giải phóng chậm hằng định tiếp theo sau. Sự giải phóng ồ ạt ở giai đoạn đầu cũng được lý giải là do dược chất liên kết yếu với polyme ở bề mặt Tiểu phân nano hoặc do sự hấp phụ dược chất trên bề mặt Tiểu phân nano sử dụng chất mang polymer bằng phương pháp nhũ hóa polysorbate 80 và khuếch tán dung môi. Quá trình giải phóng chậm sau đó có thể là do dược chất khuếch tán qua cốt polyme hoặc do sự ăn mòn polyme [93]. Ngoài ra, cơ chế giải phóng dược chất còn phụ thuộc vào độ tan, khả năng khuếch tán, sự phân hủy sinh học của polyme, khả năng nạp thuốc, KTTP của Tiểu phân nano [100]. Sự giải phóng dược chất tương tự cũng đã được chỉ ra trong rất nhiều nghiên cứu như của Parveen và cộng sự [130], Khalill và cộng sự [93].

Tuy nhiên, kết quả của nghiên cứu (Bảng 3 ở Phụ lục 2 và hình 3.24) lại cho thấy, sự giải phóng dược chất ở Tiểu phân nano ART/PLGA-PEG nhanh hơn và nhiều hơn so với Tiểu phân nano ART/PLGA. Điều này có thể giải thích do sự hiện diện của dược chất trên bề mặt Tiểu phân nano lớn hơn và do quá trình hydrat hóa nhanh hơn khi có mặt PEG với bản chất là một chất thân nước [105]. Kết quả này cũng phù hợp với nghiên cứu của Arora với lượng dược chất giải phóng trong 2 giờ đầu lần lượt là 18,31 ± 3,42% và 23,95 ± 2,96% đối với Tiểu phân nano PLGA và Tiểu phân nano PLGA bao PEG [16], tương tự của Li lần lượt là 20,7% và 30,1% đối với Tiểu phân nano PLGA và PLGA-PEG trong 12 giờ [105]. Ngoài ra, sự giải phóng của dược chất từ Tiểu phân nano PLGA-PEG nhanh hơn và nhiều hơn so với Tiểu phân nano PLGA còn có thể được lý giải do bản chất thân nước của PEG giúp cải thiện tính thấm của dược chất và làm tăng khả năng khuếch tán của dược chất qua polyme [93].

Tương tự như cơ chế giải phóng dược chất từ Tiểu phân nano ART/PLGA-CS, quá trình giải phóng dược chất từ Tiểu phân nano ART/PLGA-PEG cũng xảy ra thông qua cơ chế hỗn hợp trong đó các quá trình khác nhau xảy ra đồng thời đóng một vai trò quan trọng, bởi vì mô hình giải phóng được minh họa thông qua mô hình bán thực tế Korsmeyer-Peppas (Bảng 4 ở Phụ lục 2). Do vậy, tương tự đối với trường hợp này, mô hình Korsmeyer-Peppas có hệ số mũ khuếch tán n bằng 0,222 (dưới giá trị 0,43 đối với các mẫu có dạng hình cầu) chứng tỏ sự khuếch tán Fick là một trong cơ chế vận chuyển thuốc hoặc có thể là sự kết hợp của các cơ chế khuếch tán và ăn mòn polyme [116], [144].

Như vậy, nghiên cứu đã bào chế Tiểu phân nano artesunat sử dụng PLGA được bao bằng CS hoặc PEG với các đặc tính lý hóa như đã đề cập, chất nhũ hóa được sử dụng tween 80. Tuy nhiên, để tiếp tục bào chế ra dạng thành phẩm cuối cùng là bột đông khô pha tiêm, thông qua bảng so sánh một số đặc điểm của các công thức bao CS hoặc PEG (bảng 3.13) thì công thức bao PEG đã thể hiện một số thuận lợi nhất định so với các công thức còn lại. Với EE và LC lớn, KTTP nhỏ nhất là 176,5 ± 2,4 nm, quá trình bao là sự gắn kết hóa học, sự đơn giản của quy trình và thiết bị cũng như khả năng nghiên cứu trong điều kiện tiếp theo ở Việt Nam nên trong phần bào chế bột đông khô pha tiêm chứa Tiểu phân nano artesunat tiếp theo, công thức và quy trình bào chế Tiểu phân nano artesunat sử dụng PLGA-PEG đã được lựa chọn để tiếp tục nghiên cứu.