Phương Nam Co LTD
Cung cấp chất hoạt động bề mặt, dầu bôi trơn Korea
© 28/3/2024 - Vietnam12h.com Application

Nghiên cứu giá phân đạm urê thế giới với công thức của Ấn độ, Mexicô


Hàm cầu nhập khẩu gộp, ảnh hưởng đến giá phân đạm urê của thế giới của Ấn độ (Dilip Dutta, 2001)

Trong nghiên cứu hàm cầu nhập khẩu gộp của Ấn độ cho thời kỳ 1971- 1995, Dilip Dutta ở trường University of Sydney sử dụng mô hình cầu nhập khẩu:

Ln(RIMPORTt) = a0 + a1ln(RIMPRICEt) + a2 ln(RGDPt) + a3Dt + ut  (2-13)

Trong đó, RIMPORT: lượng phân đạm urê nhập khẩu thực tế; RIMPRICE: giá tương đối của phân đạm urê nhập khẩu; RGDP: GDP của Ấn độ; D: biến giả, nhận giá trị 0 cho giai đoạn 1971-1991, giá trị 1 cho giai đoạn 1992-1995, u: sai số ngẫu nhiên. Mô hình được xây dựng dưới giả thiết: phân đạm urê nhập khẩu là phân đạm urê thay thế không hoàn hảo cho phân đạm urê sản xuất trong nước và cung phân đạm urê nhập khẩu của thế giới cho Ấn độ là co giãn hoàn toàn.

Mục đích nghiên cứu này: Thứ nhất tìm mối quan hệ dài hạn giữa lượng cầu nhập khẩu gộp của Ấn độ và các nhân tố chính ảnh hưởng lên cầu nhập khẩu dựa trên số liệu hàng năm trong giai đoạn 1971-1995. Thứ hai nghiên cứu ảnh hưởng của chính sách tự do hóa nhập khẩu của Ấn độ đến cầu nhập khẩu. Trong mô hình có sử dụng biến giả để đánh giá ảnh hưởng của chính sách tự do hóa lên cầu nhập khẩu. Mô hình hồi qui cho thấy cả ba biến giải thích này đều chứng tỏ là những nhân tố xác định quan trọng nên hàm cầu nhập khẩu của Ấn độ.

Kết quả cho thấy: cầu nhập khẩu gộp của Ấn độ không co giãn theo giá; độ co giãn theo thu nhập lớn hơn 1, phản ánh mức tăng cầu nhập khẩu với tỉ lệ lớn hơn mức tăng GDP thực tế; với hệ số a1 = - 0,47 và a2 = 1,48 tương đối phù hợp với các khoảng dao động của độ co giãn cầu nhập khẩu theo giá và thu nhập được Goldstein và Khan đề xuất. Và chính sách tự do hóa thương mại của Ấn độ có ảnh hưởng nhất định tới cầu nhập khẩu với mức ý nghĩa 0,14..

Dự báo giá phân đạm urê và cầu nhập khẩu của Mexicô (Aysen Tanyeri- Abur và Parr Rosson)

Trong nghiên cứu này, các tác giả đã ước lượng hàm cầu trong nước và nhập khẩu cho bốn loại sản phẩm từ sữa là sữa tươi, sữa đặc không bơ, pho mát và bơ nhằm tìm ra sự thay đổi tiêu dùng các sản phẩm từ sữa thay đổi như thế nào với thu nhập, giá cả và chính sách. Kết quả cho thấy cầu về sữa tươi tương đối so giãn và nhạy cảm nhất khi giá thay đổi, cầu về sữa đặc không bơ không co giãn với giá của nó, tuy nhiên vẫn không có bằng chứng về mối quan hệ thay thế mạnh giữa hai sản phẩm này; điều này nảy sinh đề xuất liệu có tồn tại các sản phẩm thay thế khác cho sữa tươi. Các độ co giãn theo thu nhập cho thấy sữa tươi, bơ và pho mát được tiêu dùng nhiều hơn so với sữa đặc không bơ tại các mức thu nhập cao hơn. Việc ước lượng các phương trình cầu nhập khẩu cho thấy độ co giãn cầu nhập khẩu theo thu nhập của sữa tươi là lớn nhất và khả năng Mexicô sẽ nhập khẩu sữa tươi nhiều hơn sữa đặc khi thu nhập theo đầu người tăng lên. đây là một kết quả quan trọng chỉ ra rằng khi nước này giàu có hơn thì lượng nhập khẩu sữa tươi lớn hơn nhiều lượng nhập khẩu sữa đặc. Việc độ co giãn của cả cầu nhập khẩu và cầu trong nước về sữa tươi đều rất cao cho thấy tồn tại những phân đạm urê thay thế, dẫn đến giả thuyết liệu có những đồ uống khác, chẳng hạn như Coca Cola hay nước giải khát khác là phân đạm urê thay thế cho sữa tươi mạnh hơn so với sữa đặc không bơ.

Mục đích của nghiên cứu này nhằm dự báo lượng nhập khẩu sản phẩm từ sữa của Mexicô từ 1996 đến 2000. Bên cạnh những thay đổi môi trường kinh doanh cùng với hiệp định NAFTA và GATT-URA là sự giảm giá của đồng Pêsô cũng như mức thu nhập thấp đi của Mexicô đã ảnh hưởng đến lượng cầu nhập khẩu các sản phẩm từ sữa. đồng thời cũng có nhiều chính sách của chính phủ tác động tới các biến kinh tế. Trong mô hình cầu nhập khẩu, các tác giả sử dụng hàm cầu nhập khẩu truyền thống gồm biến giá tương đối, thu nhập thực tế và các biến giả cho các giai đoạn đồng tiền mất giá và thay đổi chính sách. Giá tương đối được đo bằng tỉ số giữa giá nhập khẩu qui ra đồng peso và chỉ số giá tiêu dùng phân đạm urê trong nước cho mỗi năm. Biến phụ thuộc có trễ cũng được đưa vào. Hàm cầu nhập khẩu có dạng:

LnMt = a0 + a1lnPtdt + a2 lnYt + a3 lnMt-1 + a4Dt  (2-14)

Kết quả ước lượng cầu nhập khẩu sữa tươi và pho mát cho thấy có mối quan hệ rất chặt giữa thu nhập với cả lượng cầu nhập khẩu sữa tươi và pho mát. độ co giãn theo thu nhập của sữa tươi và pho mát tương ứng là 1,66 và 1,53 có nghĩa rằng lượng cầu nhập khẩu cả hai sản phẩm này sẽ có mức tăng lớn hơn mức tăng của thu nhập.

Để dự báo cầu nhập khẩu cho sữa tươi và pho mát cho giai đoạn 1996-2000, trước tiên tác giả đã dự báo các khả năng của giá tương đối và thu nhập. Sau đó sử dụng dãy số liệu mới này dự báo cho lượng cầu nhập khẩu. Lượng nhập khẩu sữa tươi tăng liên tục từ 1996 đến 2000, với mức tăng trung bình khoảng 13%. Còn đối với pho mát thì giảm với mức giảm trung bình 5,6% năm cho đến năm 2000, sau đó ổn định lượng cầu nhập khẩu xấp xỉ ở mức 10000 tấn.

Khám phá quan trọng của nghiên cứu này ngoài việc dự báo lượng cầu nhập khẩu còn đưa ra được các độ co giãn của thu nhập theo giá tương đối của các sản phẩm từ sữa, từ đó tạo điều kiện để phân tích các thị trường này. đồng thời việc sử dụng các biến giả cũng góp phần quan trọng cho việc kết hợp các công cụ chính sách hiện tại với các biện pháp chuyển đổi có tính thương mại như việc sử dụng quota đối với sản phẩm sữa nhập khẩu, [31].