Cửu Long Co LTD
Cung cấp hoá chất xử lý nước thải PAC
© 18/4/2024 - Vietnam12h.com Application
Thực trạng tiêu dùng phân đạm urê

Nước ta thường dùng nhiều 3 loại phân đạm: urê, amôn phốt phát và amôn sun phát. Phân đạm urê ngoài việc bón trực tiếp cho cây trồng dưới dạng phân đơn còn được dùng để sản xuất ra các loại phân hỗn hợp khác.

Trước năm 1989, năng suất lúa một vụ rất thấp, năng suất trung bình giai đoạn 1981-1985 chỉ đạt 24,25 tạ/ha. Sản xuất nông nghiệp mang nặng tính tự cấp tự túc, nông dân chủ yếu sử dụng phân hữu cơ như phân chuồng, phân bắc, phân xanh ... bón cho cây trồng. Tỉ lệ sử dụng phân đạm rất thấp, chủ yếu dựa vào Nhà máy phân đạm Bắc Giang, nhà máy sản xuất phân đạm chủ yếu lúc bấy giờ có sản lượng phân đạm urê không đáng kể do nhà nước bao tiêu sản phẩm khoảng 20.000-30.000 tấn/năm; còn lại nhập khẩu từ Nga và đông Âu. Tổng lượng chất dinh dưỡng được hoàn trả lại cho đất thấp hơn rất nhiều so với lượng chất dinh dưỡng mà nông sản lấy đi. Do đó năng suất lúa rất thấp. Năm 1985/86 tổng lượng chất dinh dưỡng (N + P2O5 + K2O) sử dụng là 385,5 nghìn tấn (tương đương khoảng 1,1 triệu tấn phân bón các loại) trên diện tích đất nông nghiệp khoảng 6990 nghìn ha. Mặt khác tỉ lệ 3 chất dinh dưỡng cơ bản này cũng mất cân đối 1:0,23:0,05, tương đối nhiều đạm quá ít kali, và ít lân; so với tỷ lệ bình quân trên thế giới thời kỳ này là 1:0,47:0,36.

Từ năm 1990 đến nay, sản xuất nông nghiệp của nước ta đạt tốc độ tăng trưởng nhanh và liên tục, năng suất lúa tăng từ 3,1 tấn/ha năm 1990 lên tới 4,93 tấn/ha năm 2006. Cùng với sự phát triển của ngành nông nghiệp, tiêu dùng phân bón vô cơ ở nước ta cũng tăng nhanh trong 20 năm qua, lượng phân đạm urê tiêu dùng gia tăng liên tục. Nếu năm 1991 lượng phân đạm urê tiêu dùng cả nước khoảng 1,1 triệu tấn, thì năm 2003 lên đến 2,07 triệu tấn, trong đó nhập khẩu trên 1,92 triệu tấn.

Lượng chất dinh dưỡng N tăng từ 419.000 tấn năm 1990/91 lên 1.317.500 tấn năm 2004/05. Tỉ lệ sử dụng giữa 3 chất dinh dưỡng cơ bản cũng cải thiện đáng kể, năm 1990/91 là 1:0,25:0,05, thì năm 2003/04 đạt 1:0,56:0,36. Năm 2004/2019tiêu dùng khoảng 2,708 triệu tấn dinh dưỡng cơ bản, tức là tăng hơn 7 lần so với năm 1985/86, bảng 3-3. Sử dụng phân đạm TB tăng 9,5%/năm, phân lân tăng 15,3% và kali tăng 34,9%/năm. Tổng lượng (N + P2O5 + K2O) tăng TB là 11,5%/năm và có xu hướng còn tăng ở mức 7- 10%/năm trong những năm tới. Nếu xét theo 4 giai đoạn 1986-1990, 1991-1995, 1996-2000, 2001-2019thì lượng phân đạm tiêu thụ tăng hàng năm tương 10,5%; 18,3%; 8% và 1,4%, [3].

Năm 2000, sản xuất nông nghiệp tăng khá, lương thực đạt 34,5 triệu tấn tăng gần 1,4 triệu tấn so với năm 1999, cung gạo cho xuất khẩu duy trì ở mức cao 4,5 triệu tấn. Mặt khác, Nhà nước đổi mới cơ chế kinh doanh nhập khẩu phân bón; từ 4/2000 việc cho phép nhập phân NPK và miễn thuế nhập khẩu phân đạm urê đã tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp chủ động nguồn cung phân đạm urê và NPK. Giá phân NPK tương đối ổn định; mức chênh lệch giữa phân NPK trong nước và nhập khẩu thu hẹp đáng kể còn khoảng 100 đồng/kg so với 200-300đồng/kg của năm 1999. Lượng phân đạm urê tiêu dùng lên đến 2,18 triệu tấn, trong đó nhập khẩu trên 2,1 triệu tấn tăng 13,8% so với năm 1999.

Năm 2001, nhu cầu tiêu dùng phân bón nói chung và phân đạm urê nói riêng giảm; Nguyên nhân là do giá các một số nông phẩm quan trọng của VN như gạo, cà phê và hạt tiêu giảm mạnh làm cho tiêu thụ phân đạm ở Tây nguyên và đông Nam Bộ giảm đáng kể. đồng thời ở lũ lụt kéo dài ở đBSCL, vùng tiêu thụ phân đạm urê lớn nhất cả nước, đã làm cho tiêu dùng phân đạm urê giảm. Lượng tiêu dùng phân đạm urê năm 2000 cả nước chỉ khoảng 1,74 triệu tấn, trong đó nhập khẩu phân đạm urê là 1,65 triệu tấn, giảm 21% so với năm trước.

Năm 2002, VN chuyển đổi cơ cấu nông nghiệp theo hướng chuyển từ cây, con có giá trị gia tăng thấp sang cây, con có giá trị gia tăng cao; So với năm 2000 diện tích lúa giảm 170.000 ha, nhưng diện tích ngô tăng 80.000 ha, bông tang 16.000 ha; cao su tăng 17.00 ha; đậu tương tăng 34.000 ha …Giá trị sản xuất nông- lâm-ngư nghiệp tăng 5,4%, đạt mức tăng cao nhất từ trước tới thời điểm này; sản lượng lương thực đạt 36,9 triệu tấn, tăng hơn 7%. Giá gạo xuất khẩu cũng tăng 30 USD/tấn. Tiêu dùng phân đạm urê năm 2002 cả nước hơn 1,9 triệu tấn, tăng 9,2% so với năm trước, trong đó nhập khẩu 1,818 triệu tấn.

Năm 2003, tuy thời tiết không thuận nhưng nông nghiệp VN vẫn được mùa toàn diện. Nhiều vùng và địa phương thực hiện chủ trương mở rộng diện tích lúa chất lượng cao phục vụ xuất khẩu gạo, nhất là đBSCL. Tuy diện tích lúa giảm khoảng 60.000 ha nhưng sản lượng và năng suất vẫn tăng so với năm trước. Tiêu dùng phân đạm urê cả nước khoảng 2,07 triệu tấn.

Năm 2004, VN gặp khó khăn không nhỏ do thiên tai như lụt, bão, lốc, mưa đá sạt lở đất tại nhiều địa phương. Nhưng nông nghiệp vẫn đạt được kết quả tích cực trên nhiều mặt và có tốc độ tăng cao hơn so với năm trước. Tổng sản lượng lượng thực đạt 39,3 triệu tấn tăng trên 1,8 triệu tấn so với năm trước. Lượng tiêu dùng phân đạm urê cũng tăng, đạt khoảng 2,1 triệu tấn. Nhu cầu tiêu dùng phân đạm urê cao nhất là vụ đông Xuân khoảng 1,0-1,1 triệu tấn, trong đó: miền Bắc 360.000 tấn, miền trung 150.000 tấn và miền Nam 650.000 tấn. Vụ hè thu nhu cầu tiêu dùng phân đạm urê cả nước khoảng 530.000-570.00 tấn, trong đó miền Nam là 330.000-350.000 tấn, miền Bắc và miền Trung khoảng 200.000-220.000 tấn; Vụ mùa tiêu dùng khoảng 560.000- 600.000 tấn.

Năm 2019, nhu cầu tiêu dùng phân đạm urê cả nước khoảng 2-2,1 triệu tấn. Tuy nhiên do thiếu cung phân đạm urê trầm trọng, khoảng 250.000- 350.000 tấn, nên lượng tiêu dùng phân đạm urê chỉ khoảng 1,74 triệu tấn. Bộ NN&PTNN đã đưa ra nhiều chương trình khuyến nông như: Bón phân hợp lý, “Ba giảm, ba tăng”, Quản lý dịch hại tổng hợp, đã giảm dần việc sử dụng phân đơn, nhất là urê, và chuyển qua dùng các loại phân bón tổng hợp NPK, phân vi sinh, phân hữu cơ sản xuất trong nước. Các giải pháp bổ sung và thay thế đó cũng góp một phần đáng kể làm giảm căng thẳng về cung urê. Tuy nhiên, thiếu cung phân đạm urê do lượng nhập khẩu không đủ đã gây nhiều khó khăn cho nông dân, và ảnh hưởng đến sản lượng, năng suất và chất lượng nông phẩm.

Năm 2006, cả nước tiêu dùng gần 2 triệu tấn NPK, phân vi sinh tăng gấp 2 so với năm trước. Phong trào “Ba giảm, ba tăng” được tổ chức thành công ở nhiều tỉnh đBSCL và đang lan rộng ra nhiều vùng trong cả nước. Riêng nông dân đBSCL trong vụ đông-Xuân 2019-2006 đã áp dụng “Ba giảm, ba tăng” trên diện tích 379.915 ha chiếm 25,2% diện tích; việc giao sạ thưa bình quân giảm 49 kg giống/ha (tương đương 137.556 đồng), việc bón đạm theo bảng so màu lá lúa và sử dụng phân bón cân đối hợp lý bình quân mỗi ha giảm 28 kg đạm. Do đó, tiêu dùng phân đạm urê của năm 2006 chỉ vào khoảng 1,8 triệu tấn, trong đó nhập khẩu 900.000 tấn, và về cơ bản cung đáp ứng đủ cho nhu cầu sản xuất nông nghiệp, mặc dù khi vào chính vụ cũng có lúc xảy ra thiếu cung.

Như vậy, tính chung trong 4 năm 2003-2006, tiêu dùng phân đạm urê của VN giảm đi khoảng 300.000 tấn/năm. Nếu năm 2003 tiêu dùng 2,07 triệu tấn thì năm 2006 chỉ tiêu dùng 1,8 triệu tấn. Lý do cơ bản làm nhu cầu phân đạm urê của VN giảm đi là do giá phân đạm urê của thế giới tăng mạnh và đứng ở mức cao, cung phân đạm urê của thế giới cũng hạn chế; đồng thời VN đưa ra nhiều chương trình khuyến nông và gia tăng tiêu dùng phân hỗn hợp NPK cũng góp phần làm giảm nhu cầu tiêu dùng urê.

Tuy nhiên, theo nghiên cứu của Viện Thổ nhưỡng Nông hóa, ở Việt Nam bón 1 kg (N+P2O5+K2O) có thể làm tăng 7,5-8 kg lương thực, thấp hơn so với mức tăng trung bình của Châu Á. Hiện nay, mức sử dụng phân vô cơ ở nước ta khoảng gần 179 kg/ha (bảng 3-4), bằng mức trung bình của thế giới, nhưng còn thấp hơn nhiều so với Hàn Quốc(467kg/ha), Nhật Bản 403 (kg/ha), Trung Quốc (390 kg/ha). Do đó trong các năm tới nhu cầu tiêu dùng phân đạm urê của VN vẫn còn tăng nhẹ, thị trường phân đạm urê nói riêng và phân vô cơ nói chung ở nước ta vẫn còn có thể mở rộng, [3] .