Phương Nam Co LTD
Thi công xây dựng phần thô
© 25/4/2024 - Vietnam12h.com Application
 Polysorbate 80 chất ổn định tiểu phân nano artesunat /PLGA-Polyethylene glycol PEG

Hình thái của tiểu phân nano ART/PLGA-Polyethylene glycol PEG với tween 80 có tác dụng là chất ổn định

Hình thái của Tiểu phân nano được xác định bằng kính hiển vi điện tử quét (SEM) theo mục 2.4.2.3. Kết quả được thể hiện như ở hình 3.20.

Hình 3.20. Hình ảnh chụp SEM của Tiểu phân nano ART/PLGA-PEG

Nhận xét: Dựa vào hình ảnh thu được bằng kính hiển vi điện tử quét, có thể thấy rằng Tiểu phân nano có hình cầu sử dụng tween 80 làm chất ổn định, KTTP nhỏ, phân bố kích thước trong một khoảng hẹp, phù hợp với kết quả về kích thước tiểu phân trung bình và PDI đo được bằng phương pháp phổ tán xạ ánh sáng.

Phổ nhiễu xạ tia X

Phổ X-ray của các nguyên liệu (ART, PLGA, PLGA-PEG) , Tiểu phân nano ART/PLGA-Polyethylene glycol PEG và hỗn hợp vật lý tương ứng (PM) được trình bày trong hình 3.21.

Hình 3.21. Phổ XRD của ART, PLGA, PLGA-PEG, hỗn hợp vật lý (PM) và Tiểu phân nano ART/PLGA-PEG (NPs)

Nhận xét: Phổ XRD của artesunat nguyên liệu cho thấy một số đỉnh riêng biệt trong khoảng góc nhiễu xạ 2qtừ 5-30o tại 9,5o, 9,7o, 12,3o, 13,1o, 15,5o, 18,7o, 19,9o, 22,1o (Hình 3.21, được đánh dấu *) chứng tỏ bản chất tinh thể của ART, trong khi PLGA và PLGA-PEG là các polyme vô định hình nên không thể hiện bất kỳ một đỉnh nhiễu xạ nào. Hình 3.19 còn cho thấy các đỉnh nhiễu xạ của artesunat không còn xuất hiện trên phổ đồ X-ray của Tiểu phân nano ART, trong khi vẫn quan sát thấy ở mẫu hỗn hợp vật lý (PM) tương ứng. Điều này chứng tỏ artesunat tồn tại ở trạng thái vô định hình hay ở dạng phân tán phân tử trong TP nano có tween 80 làm chất ổn định.

Phân tích phổ hồng ngoại

Tương tác lý hóa của các thành phần trong Tiểu phân nano ART/PLGA-PEG được đánh giá bằng phổ hồng ngoại theo mục 2.4.2.4 với kết quả như ở hình 3.22.

Hình 3.22. Phổ hồng ngoại của ART, PLGA, PLGA-PEG, hỗn hợp vật lý (PM) và Tiểu phân nano ART/PLGA-PEG (NPs)

Nhận xét: Hình 3.22 cho thấy phổ hồng ngoại của ART/PLGA-PEG đều có các pic tương tự trên phổ hồng ngoại của ART, PLGA hoặc PLGA-PEG chứng tỏ không có tương tác giữa ARTESUNAT và các thành phần trong công thức. Từ phổ của Tiểu phân nano ART/PLGA-Polyethylene glycol PEG , các pic như nhóm COO ở 1747 cm-1, dao động hóa trị của nhóm CH, CH2 và CH3 ở giữa 2945 và 2996 cm-1, pic của nhóm O-H trong khoảng 3386-3485 cm-1 tương tự như các pic trên phổ của ART, PLGA hay PLGA-PEG.

Phân tích phổ 1H-NMR

Phổ cộng hưởng từ hạt nhân proton (1H-NMR) của Tiểu phân nano ART/PLGA-PEG trong hai môi trường khác nhau D2O và CDCl3 được trình bày trong hình 3.23.

Hình 3.23. Phổ 1H-NMR của Tiểu phân nano ART/PLGA-PEG trong CDCl3, D2O

Nhận xét: Phổ 1H-NMR của Tiểu phân nano ART/PLGA-PEG trong môi trường CDCl3 chỉ ra các tín hiệu cộng hưởng của hợp phần PLGA tại dH 5,22 ppm (m, -CH của đơn vị lactic) , 4,82 ppm (s, -CH2 của đơn vị glycolic) và 1,58 ppm (m, -CH3 của đơn vị lactic) , tín hiệu của hợp phần Polyethylene glycol PEG  tại dH 3,65 ppm (s, OCH2-CH2O) . Những tín hiệu còn lại tại dH 5,80 ppm (d, J = 9,7 Hz, H-12) , 5,44 ppm (s, H-5) , 0,96 ppm (d, J = 5,47, H-14) , 0,85 ppm (d, J = 7,3 Hz, H-13) trên phổ được gán cho hợp phần ART. Trong khi đó, trong môi trường D2O thể hiện pic với cường độ lớn của các proton của nhóm methylen của chuỗi PEG trong PLGA-PEG tại dH 3,65 ppm. Điều này chứng tỏ sự tồn tại của chuỗi Polyethylene glycol PEG  thân nước bên ngoài Tiểu phân nano PLGA-Polyethylene glycol PEG sử dụng polysorbate 80 làm chất ổn định.

Khả năng giải phóng dược chất in vitro

Khả năng giải phóng của artesunat từ Tiểu phân nano ART/PLGA-PEG bào chế theo công thức tối ưu được đánh giá theo phương pháp ghi ở mục 2.4.2.9 trong môi trường dung dịch đệm phosphat pH 7,4. Để đánh giá khả năng kiểm soát giải phóng dược chất của PEG, tốc độ giải artesunat từ Tiểu phân nano ART/PLGA-Polyethylene glycol PEG được so sánh với Tiểu phân nano ART/PLGA. Phần trăm giải phóng tích luỹ của artesunat được thể hiện qua bảng 3 ở Phụ lục 2 và hình 3.24 (n=3) .

Hình 3.24. Đồ thị thể hiện tỷ lệ giải phóng dược chất từ Tiểu phân nano ART/PLGA-PEG và Tiểu phân nano ART/PLGA (n=3)

Nhận xét: Sự giải phóng của artesunat được chia làm 2 pha: pha giải phóng nhanh (giải phóng ồ ạt) trong các giờ đầu và pha giải phóng chậm (gần đạt hằng định) sau 10 giờ. Khác với Tiểu phân nano ART/PLGA-CS, sự giải phóng dược chất ở Tiểu phân nano ART/PLGA-PEG nhanh và nhiều hơn ở Tiểu phân nano ART/PLGA.

Phân tích động học giải phóng

Ngoài ra, nhằm dự đoán cơ chế giải phóng của dược chất từ TP nano, dữ liệu hòa tan đã được đưa vào các mô hình toán học khác nhau như mô tả ở mục 2.4.2.10 thu được kết quả trong bảng 4 ở Phụ lục 2.

Nhận xét: Từ bảng 4 ở Phụ lục 2, cho thấy mô hình Korsmeyer-Peppas cho giá trị AIC nhỏ nhất, nên mô hình Korsmeyer-Peppas mô tả gần nhất động học giải phóng của Tiểu phân nano ART/PLGA-PEG. Về cơ chế giải phóng, giá trị n thu được từ mô hình Korsmeyer-Peppas là 0,222 nên chưa thể kết luận về cơ chế giải phóng dược chất, có thể hỗn hợp của các cơ chế khuếch tán,ăn mòn polyme và cơ chế khác chưa biết.

Như vậy, nghiên cứu đã tiến hành thay đổi đặc tính bề mặt của nano ART/PLGA bằng CS hoặc PEG (dùng PLGA đã gắn sẵn PEG) với kết quả so sánh tóm tắt như ở bảng 3.13.

Bảng 3.13. So sánh một số đặc điểm của quá trình bào chế các Tiểu phân nano PLGA bao CS hay Polyethylene glycol PEG

Nhận xét: Như vậy, mặc dù các loại Tiểu phân nano này trên đều có thể nghiên cứu sâu hơn. Tuy nhiên, do có EE và LC lớn, KTTP nhỏ, quá trình bao là sự gắn kết hóa học, sự đơn giản của quy trình và thiết bị cũng như khả năng nghiên cứu trong điều kiện tiếp theo ở Việt Nam nên trong phần bào chế bột đông khô pha tiêm chứa Tiểu phân nano artesunat tiếp theo, công thức và quy trình bào chế Tiểu phân nano Artesunat sử dụng PLGA- PEG đã được lựa chọn để tiếp tục nghiên cứu.


Link Đọc file PDF hoặc tải file pdf về máy tính
HDBM