Phương Nam Co LTD
Cung cấp chất hoạt động bề mặt, dầu bôi trơn Korea
© 25/4/2024 - Vietnam12h.com Application

Phân đạm urê ảnh hưởng đến quần xã các loài Oribatida


Các loài Oribatida ưu thế ở đất trồng hành lá có phân, không phân Urê và ban đầu chưa bón phân tại sinh cảnh nghiên cčru

Loài ưu thế có số lượng cá thể riêng chiếm từ 5% đến 10% trong tổng số cá thể chung của quần xã. Ở mỗi sinh cảnh có một tập hợp loài ưu thế đặt trưng và tập hợp này thay đổi ở các sinh cảnh khác nhau theo thời gian: Sự thay đổi của các loài ưu thế phàn ánh sự thay đổi điều kiện trong môi trường sống. Trong điều kiện môi trường sống tối ưu, mang tính chất tự nhiên, thông thường các loài trong quần xã có số lượng cá thể tương đổi đồng đều. Giá trị số lượng loài ưu thế không vượt trội hơn các loài khác. Ngược lại khi điều kiện môi trường thay đổi, tác động đến tính cá thể, sinh vật phải tự điều chỉnh để thích ứng với điều kiện sống mới dẫn đến kết quả: một số loài bị diệt vong, một số loài khác phát triển đột biến làm thay đổi hình ảnh tập hợp ưu thế trong quần xã. Trên cơ sở thay đổi ấy, người ta có thể phán đoán được quá trình cũng như chiều hướng diễn thể của sự thay đổi môi trường. Như vậy, phân bón Urê ảnh hưởng không chi đến thành phần, tính chất lý hóa của đất mà còn ảnh hưởng đến đặc điểm định lượng của hệ động vật đất nói chung và ve giáp nói riêng. Phân bón Urê một mặt làm thay đổi phương thức kiếm ăn của ve giáp, động thời làm tăng độ da dạng H’ và do đồng đều J’.

Kết quả cho thay có 3 loài chiếm ưu thế trên toàn bộ sinh cảnh gồm: Setoxylobates foveolatus có độ ưu thế rất cao ở 3 vùng sinh cảnh. Sau đó đến Xylobates lophotrichus cùng có độ ưu thế đồng đều và tương đối cao cả 3 vùng sinh cảnh. Ngoài ra còn có Cultroribula lata cũng có xuất hiện ở tất cả các vùng sinh cảnh khác nhau. ở mỗi vùng sinh cảnh khác nhau có cấu trúc ưu thế của quần xã khác nhau, được thể hiện.

Cấu trúc loài ưu thế của Oribatida ở đất tại điểm nghiên cứu

Ghi chú: Cul: Cultroribula lata,- Set: Setoxylobates foveolatus,- Xyl: Xylobates lophotrichus; Ere: Eremella vestita; Sch: Scheloribates pallidulus; Dol: Dolicheremaeus ornata; Acr sp.: Acrotocepheus sp.

Hình ảnh  cho thấy ở nền đất trồng cây hành lá không sữ dụng phân hóa học Urê tuy thành phần loài không da dạng như ở vùng đất có phân nhưng sự phân bố của các loài lại có sự đồng đều hơn. Loài ưu thế nhất là Setoxylobates foveolatus Balogh et Mahunka, 1967 chiếm 36,94%. Các loài khác thì có số lượng cá thể tương dương nhau. Trên nền Đất trồng cây hành lá sử dụng phân hóa học Urê nhận thấy, có 5 loài chiếm ưu thế trên toàn bo sinh cảnh. Loài chiếm ưu thế nhất là Setoxylobates foveolatus Balogh et Mahunka, 1967 chiếm 34,88%. Còn các loài khác Cultroribula lata Aoki, 1961; Eremella vestita Berlese, 1913; Xylobates lophotrichus (Brerlese, 1904) ; Scheloribates pallidulus (C. L. Koch, 1840); lsp. phân bố rải rác với số lượng tương dương nhau. Trên nền Đất trồng cây hành lá không sử dụng phân hóa học Urê tuy thành phần  loài không da dạng như ở vùng đất có phân nhưng sự phân bố của các loài lại có sự đồng đều hơn. Loài ưu thế nhất là Setoxylobates foveolatus Balogh et Mahunka, 1967 chiếm 36,94%. Các loài khác thi có số lượng cá thể tương dương nhau.

Kết luậ

Đất trồng hành tai Vườn Sinh học khoa Sinh — KTNN có 10 họ, 13 giống và 16 loài. ở Đất trồng có phân Urê có 15 loài, đất không có phân có l l loài, đất ban đầu chưa bón phân có 10 loài. Các thể Oribatida tập trung tại môi trường có nhiều chất đinh dưỡng nhất chính là thời điểm cây hành phát triển nhất.

Có 3 loài chi xuất hiện ở đất trồng có phân Urê: Peloribates pseudoporosus Balogh et Mahunka, 1967; Xylobates gracilis Aoki, 1962 ; Galumna flabellifera Hammer, 1952 tạo nên do đa dạng phong phú cho vùng sinh cảnh. Ba loài chiếm ưu thế trên toàn bộ các vùng sinh cảnh: Setoxylobates foveolatus Balogh et Mahunka, 1967; Xylobates lophotrichus (Brerlese, 1904); Cultroribula lata Aoki, 1961. Ngoài ra còn có các loài khác xuất hiện rãi rác nhưng cũng chiếm ưu thế ở trong vùng sinh cảnh phù hợp.