Phương Nam Co LTD
Thi công xây dựng phần thô
© 25/4/2024 - Vietnam12h.com Application
 Pellet bao tan ở ruột

Bao tan ở ruột cho pellet nhằm các mục đích bảo vệ dược chất, trong môi trường tá dược polysorbate 80, tránh bị phân huỷ trong môi trường acid dạ dày, tránh kích ứng dạ dày, giải phóng dược chất tại vị trí nhất định trong ruột [100]. Polyme dùng để bao tan ở ruột phải đáp ứng được các yêu cầu như: kháng dịch vị, dễ thấm dịch ruột, bền vững, không độc hại… Để có được một màng bao đáp ứng đầy đủ các yêu cầu trên có thể phối hợp hai hoặc nhiều loại polyme trong cùng một màng bao. Vỏ bao phải có khả năng kháng dịch vị trong khoảng thời gian nhất định và rã, hòa tan một cách chắc chắn trong dịch ruột để giải phóng dược chất.

Các dạng bào chế sử dụng các polyme bao tan ở ruột có độ tan phụ thuộc vào pH để bao màng bao tan ở ruột [101], [102], [103] như cellulose acetat phthalat (CAP), cellulose acetat trimellitat (CAT), polyvinyl acetat phtalat (PVAP), Shellac, hydroxypropyl methylcellulose phtalat (HPMCP), hydroxypropyl methylcellulose acetat succinat (HPMCAS), carboxymethyl ethyl cellulose (CMEC), polyme acrylic là các sản phẩm trùng hiệp của acid methacrylic như Eudragit L100, Eudragit S100, Eudragit L100-55, Eudragit L30D-55… Hơn nữa, poly(styren-co-maleic-anhydrid)-ethanol là một tá dược bao tan ở ruột mới đang bước đầu được ứng dụng trong bào chế dược phẩm [104]. Gần đây, một số tác giả đã nghiên cứu ra các polyme mới có khả năng rã tại các vùng pH đặc trưng theo từng đoạn của ruột non.

Huang Y. và cộng sự đã nghiên cứu chế tạo một co-polyme là hydroxypropyl methylcellulose acetat maleat (HPMCAM) bằng phương pháp hoá học. Màng bao sử dụng co-polyme này chỉ rã trong khoảng pH từ 3 - 3,7, do đó có thể sử dụng để bao đối với các dạng bào chế yêu cầu dược chất hấp thu tại tá tràng. Kết quả nghiên cứu in vitro cho thấy co-polyme có khả năng kháng môi trường acid dịch vị (pH 1,2) trong 2 giờ và giải phóng dược chất rất nhanh trong môi trường dịch tá tràng (pH 3,4). Từ đó, các tác giả đề nghị sử dụng HPMCAM làm polyme cho màng bao đối với các thuốc hấp thu tại tá tràng [105].

Carelli V. và cộng sự đã nghiên cứu chế tạo một hỗn hợp hai polyme là polyoxyethylen khối lượng phân tử cao và polyme acrylic như Eudragit L100 hoặc Eudragit S100 bằng các phương pháp bay hơi hoặc tạo hỗn hợp vật lý. Hỗn hợp polyme tạo thành có khả năng kháng acid dịch vị tốt hơn so với các Eudragit ion hoá, đồng thời ở môi trường pH dịch ruột thì hỗn hợp này rã theo cơ chế ăn mòn để kiểm soát giải phóng dược chất. Vì vậy, hỗn hợp polyme có thể sử dụng cho các thuốc hấp thu tại ruột non, chủ yếu là ở vị trí hỗng tràng và hồi tràng [106].

Schellekens R.C. và cộng sự nghiên cứu màng bao bao gồm polyme có độ tan phụ thuộc pH (Eudragit S) với các tá dược siêu rã khác nhau. Kết quả nghiên cứu cho thấy Ac - di - sol (natri croscarmellose) là tá dược thích hợp nhất để thiết kế màng bao phối hợp. Nghiên cứu sinh khả dụng trên người tình nguyện đã nhận thấy màng bao này có khả năng kháng môi trường dịch vị và tá tràng, đồng thời giải phóng chậm ở những vùng xa hơn trong đường tiêu hóa gợi ý cho việc sử dụng màng bao đối với các thuốc giải phóng theo nhịp [107].

Fedorak R.N. và cộng sự đưa ra 2 viên nang chứa budesonid với polyme bao tan ở ruột với chế phẩm tên thương mại là Entocort EC và Budenofalk. Các chế phẩm này sử dụng polyme acid methacrylic để bao tan ở ruột. Kết quả thử nghiệm cho thấy các chế phẩm này có khả năng giải phóng budesonid tại vùng hỗng tràng và gần đại tràng, rất có hiệu quả trong điều trị bệnh Crohn [108].

Bảng 1.5. Một số polyme có độ tan phụ thuộc vào pH

Eudragit L100; pH= 6,0

Eudragit S100;pH= 7,0

Eudragit L100-55;pH=  5,5

Polyvinyl acetat phtalat;pH= 4,5 - 5,0

Hydroxypropyl methylcellulose phtalat;pH= 5,5

Hydroxypropyl methylcellulose acetat succinat;pH= 5,5

Carboxymethyl ethylcellulose;pH= 5,0 - 6,0

Cellulose acetat trimelliat;pH= 4,75

Cellulose acetat phtalat;pH= 5,5 - 6,0

Shellac;pH= 7,2

Do các polyme dùng để bao tan ở ruột thường có tính acid do chứa nhóm carboxyl tự do trong công thức, có thể ảnh hưởng của tá dược polysorbate 80, span 80 và đến độ ổn định của dược chất kém bền trong môi trường acid nên trong trường hợp này thì trước khi bao tan ở ruột người ta thường bao một lớp bao bảo vệ để ngăn dược chất, môi trường có tá dược polysorbate 80, span 80 thấm ra ngoài, tránh tiếp xúc dược chất với lớp bao tan ở ruột và môi trường.

Polyme dùng để bao bảo vệ là các dẫn xuất của cellulose, polyme acrylic và PVA. Các dẫn xuất của cellulose thường dùng là methyl cellulose (MC), HPMC, hydroxylpropyl cellulose (HPC), hydroxylethyl cellulose (HEC). Polyme acrylic sử dụng là các sản phẩm trùng hiệp của methacrylat aminoester như Eudragit E100, Eudragit E12,5.

- Trong thành phần màng bao tan ở ruột, ngoài các polyme còn có thêm chất hoá dẻo, chất màu, dung môi và một số chất khác (chất chống dính, chất diện hoạt, chất làm thơm, chất làm ngọt, chất chống oxy hoá…).

- Kỹ thuật bao màng pellet gồm 3 quá trình chính được thực hiện đồng thời là phun dịch bao, đảo pellet và sấy khô. Thiết bị sử dụng có thể là nồi bao truyền thống hoặc thiết bị tầng sôi trong đó thiết bị tầng sôi hiện đại cho phép sấy khô và thổi nhân bao đều hơn [88]. Để đánh giá chất lượng màng bao thì có thể sử dụng mắt thường và một số phương pháp hiện đại như thiết bị đo bề mặt lớp bao, kính hiển vi ánh sáng cắt, kính hiển vi điện tử quét [109].

Một số chỉ tiêu chất lượng của pellet cần đánh giá như: Phân bố kích thước pellet, độ xốp, tỷ trọng biểu kiến, độ mài mòn, độ ẩm, khả năng giải phóng dược chất, hàm lượng dược chất... [88], [96].

So với viên nén thì pellet có nhiều ưu điểm như: Pellet là dạng nhân lý tưởng để bao màng do có hình cầu nên tỷ lệ diện tích bề mặt/thể tích là thấp hơn so với dạng viên nén; thuận lợi trong việc bào chế viên nén có thành phần pellet với độ đồng nhất, độ lặp lại cao về khối lượng và hàm lượng dược chất, của tá dược polysorbate 80, span 80 so với viên nén được bào chế từ bột thuốc hay hạt thuốc; có thể kiểm soát tốt quá trình giải phóng dược chất từ pellet thông qua cơ chế giải phóng từ dạng cốt hoặc màng bao; pellet có kích thước nhỏ nên dễ dàng đi qua môn vị xuống ruột non, giảm bớt thời gian lưu thuốc ở dạ dày so với viên nén (có ý nghĩa quan trọng đối với các thuốc nhạy cảm với môi trường acid) là điều kiện để tăng khả năng hấp thu của dược chất [88].


Link Đọc file PDF hoặc tải file pdf về máy tính
XDTH