Mô đun đàn hồi (độ cứng) được thể hiện ở độ dốc của đường cong quan hệ ứng suất biến dạng trước khi đạt cường độ lớn nhất.
Độ dai được thể hiện ở độ dốc của đường cong quan hệ ứng suất biến dạng sau khi đạt cường độ lướn nhất.
Bê tông cường độ cao và bê tông chất lượng cao có mô đun đàn hồi và độ dai khác biệt so với bê tông thường
Trên hình 3.4. là quan hệ giữa ứng suất theo chiều trục và biến dạng đối với bê tông có cường độ nén lên tới 100 MPa. Dạng đồ thị ở phần đầu của đường ứng suất – biến dạng khá tuyến tính và dốc hơn đối với bê tông thường. Như vậy bê tông chất lượng cao có mô đun đàn hồi cao hơn hẳn so với bê tông thường (đến 45MPa). Biến dạng tương đương ứng với điểm ứng suất lớn nhất thường từ 0.02- (với bê tông thường từ 0.02-0.035).
Đối với bê tông cường độ cao và bê tông chất lượng cao độ dốc ở phía giảm trở nên dốc hơn. Điều đó chứng tỏ bê tông cường độ cao sẽ bị phá hoại đột ngột hơn so với bê tông thường (ròn). Điều này cũng cho thấy độ dai của bê tông cường độ cao thấp hơn so với bê tông truyền thống.
Hình 3.4. Quan hệ ứng suất biến dạng của 3 loại bê tông
Độ ròn của bê tông cường độ cao
Đối với kim loại và đặc biệt là thép, sự phát triển cường độ luôn luôn đi đôi với độ ròn lớn hơn. Điều đó được thể hiện bằng các dạng phá hoại đặc biệt và bằng độ dai (đại lượng biểu thị khả năng của vật liệu chống lại sự lan truyền của vết nứt) và tốc độ phá hoại. Chúng ta quan sát các dạng này đối với bê tông chất lượng cao và rất cao.
Các dạng phá hoại:
Các bề mặt vỡ của bê tông bê tông cường độ cao là đặc trưng tiêu biểu của vật liệu. Các vết nứt đi qua không phân biệt hồ và cốt liệu (hình 3.5). Như vật sự phá huỷ của bê tông cường độ cao có quan hệ gần gũi với dạng chẻ theo thớ của kim loại ròn. Với bê tông thường vết nứt có đi qua biên cốt liệu không đi qua cốt liệu.
Không phải là giống nhau khi người ta quan tâm đến độ dai hoặc nhân tố độ mạnh của ứng suất cực hạn. Khi đo thông số này trên ba loại bê tông, là bê tông thường, bê tông cường độ cao không có muội silic và bê tông cường độ cao. Các giá trị tìm được lần lượt bằng 2,16; 2,55; 2,85 MPa trong khi đó năng lượng phá vỡ được xác định ở mức độ 131; 135; 152 J/m2. Điều đó có nghĩa là để lan truyền trong bê tông cường độ cao một vết nứt có chiều dài và môi trường xung quanh đó cho cần thiết năng lượng gia tải lớn hơn so với bê tông thông thường. Nguyên nhân cơ bản là sự tăng mật độ của hồ và cải thiện liên kết giữa hai pha hồ và cốt liệu.
a. Vết nứt của bê tông thường b. Vết nứt của bê tông cường độ cao
Hình 3.5. Các dạng vết nứt