Phương Nam Co LTD
Thi công xây dựng phần thô
© 26/4/2024 - Vietnam12h.com Application
 Xây dựng hoàn thiện phần thô nhà ở, nhà phố

Tác dụng của lớp vữa trát và các loại trát

Tác dụng của lớp vữa trát đối với hoàn thiện công trình

Lớp vữa trát thi công phủ lên bề mặt của những bộ phận công trình nhà phố, nhà ở là để bảo vệ mặt ngoăi của công trình chống lại ảnh hưởng của thời tiết, để làm cho bề mặt công trình bằng phẳng, đẹp, chống lại tác hại của độ ẩm và của các chất ăn mòn khác, giảm bớt độ dẫn nhiệt và tiếng ồn của các bức tường hay của sàn. Lớp vữa trát còn góp phần tăng tuổi thọ công trình.

Tùy theo yêu cầu của mỗi loại công trình, tùy theo vị trí trát và theo độ ẩm của môi trường, công ty TNHH hóa chất xây dựng Phương Nam  dùng các thứ vữa trát khác nhau. Thông thường, với tường xây dựng bằng vữa xi măng thì công ty TNHH hóa chất xây dựng Phương Nam  trát bằng vữa xi măng và tường xây bằng vữa tam hợp thì trát bằng vữa tam hợp. Đối với những công trình xây dựng nhà phố, biệt thự ở nơi độ ẩm cao, tường ngoài, tường tầng hầm mái đua và các bộ phận khác chịu ẩm thường xuyên cần phải trát bằng vữạ xi mãng. Đối với nhà ở nơi khô ráo, tường trong và ngoài bằng gạch, đá thì có thể trát bằng vữa tam hợp hay vữa xi mãng. Đối với những nơi có yêu cầu riêng như yêu cầu chống cháy, chống axít công ty TNHH hóa chất xây dựng Phương Nam  dùng các loại vữa chống nhiệt chống axít v. v. . .

Các loại trát và giám sát kỹ thuật tx xây dựng trát nhà phố, biệt thự

Trong thi công công ty TNHH hóa chất xây dựng Phương Nam phân ra các loại trát sau:

Trái lót: Trát phủ một lớp mỏng lên bề mặt kết cấu phần thô nhà ở, nhà phố, biệt thự mục đích làm phẳng sờ bộ bề mặt phần thô công trình, mặt trát tương đối phẳng, có tạo nhám cho trát tiếp các lớp sau. Tùy theo bề mặt kết cấu lõm nhiều hay ít mà công ty TNHH hóa chất xây dựng Phương Nam  có thể trát lót hay không. Nếu bề mặt kết cấu lõm nhiều thì công ty TNHH hóa chất xây dựng Phương Nam  có thể trát lót nhiều lớp mỏng.

Thi công Xây dựng Trát bình thường: Dùng trát cho các bề mặt kết cấu có diện tích rộng như tường, trần v. v. . . chỉ cần mặt trát có độ phẳng, nhẵn, hằm ngang, hay thẳng đứng.

Thi công xây dựng Trát chống thấm: Có thể trát 2 hay 3 lớp vữa xi măng mác cao, mặt xoa nhẵn bằng bay thép dùng cho những nơi luôn ẩm ướt, tiếp xúc nhiều với nước như bể nước, tầng hầm, tường móng v. v. . .

Thi công xây dựng Trát trang trí: dùng các loại vữa khác nhau để trát cho các vị trí kết cấu phần thô nhà phố, biệt thự  cần trang trí rtạo nét đẹp riêng cho mặt đứng công trình.

Ngoài ra một số công trình công nghiệp đỏi hỏi những mặt trát đặc biệt bằng vữa chịu axit, vữa bển kiểm, vữa chống mài mòn v. v. . . ta có các loại trát tương ứng.

Vì những tính chất nói trên nên có thể xem vữa trát là thành phần quan trọng thứ hai sau vật liệu chịu lực của kết cấu và công trình. Công tác trát được xem là giai đoạn chủ yếu của quá trình hoàn thiện phần thô nhà phố, biệt thự trong xây dựng.

Yêu cầu kỹ thuật của công tác trát phải đạt được những quy định sau:

Mặt vữa trát phải bám chắc đều vào bề mặt kết cấu công trình.

Loại vữa và chiều dày vữa trát phải đúng yêu cầu thiết kế bản vẽ thi công nhà phố, biệt thự

Phải đạt những yêu cầu chất lượng cho từng loại mặt trát.

Yêu cầu kỹ thuật đối với mặt trát gồm:

Mặt trát phải đẹp, toàn bề mặt vữa phẳng, nhẵn, không gồ ghề, lồi lõm.

Các cạnh vữa phải sắc, ngang bằng, đứng thẳng không cong vênh xlên lệch.

Các góc các cạnh phải vuông và cân đều nhau, các mặt trát cong phải lượn đều đặn và không chệch.

Các đường gờ chỉ phải sắc, đày đều, đúng hình dạng thiết kế.

Bảo đảm đúng và đủ các chi tiết kết cấu và kiến trúc tạo bằng vữa như: mối nối, băng dài, đầu giọt chảy v. v. . .

Tùy theo những công trình có những yêu cầu kỹ thuật riêng mà lớp trát phải đáp ứng dược các yêu cầu kỷ thuật đố.

Những điều kiện để thi công trát hoàn thiện công trình nhà ở dân dụng

Khi công trình đã thi công đến giai đoạn thích hợp và khi mặt trát (tường, trần v. v. . . ) đã có dủ các điều kiện cần thiết, thì mới khởi công trát.

Tường mới xây không nên trát ngay, cần phải chờ cho vữa xây khô và tường lún sơ bộ. Khi vữa khô sẽ co ngót, tường lún xuống. Nếu ta trát lúc tường còn đang lún thì sẽ có hiện tượng tường trượt qua mặt trát, vì sự co ngót của tường và lớp trát không giống nhau, do đó lớp vữa trát không dính chặt được vào tường và sẽ có những chỗ bộp. Xây bằng vữa vôi hay vữa có ít xi măng thòi gian chờ tường khô phải lâu hơn. Một bức tường có chiều cao một íầng nhà (3 đến 4 mét) xây bằng vữa tam hợp, sau 3-4 . tuần mới có thể trát được, còn tường xây bằng vữa xi măng thì chỉ chờ 4 - 5 ngày hay 1 tuần lễ là có thể trát được.

Mặt khác, ta có thể khởi công sớhi hơn nếu trát vữa xi măng. Về mặt trình tự thi công, trước khi trát cần phải làm xong một số bộ phận công trình có tác dụng che chở cho lớp trát hoặc một số công việc mà nếu làm sau thì chúng gây hư hỏng lớp trát. Muốn khởi công trát bên trong, cần phải có các điều kiện sau đây:

Làm xong mái nhà và sân thượng trong mùa khô, có thể bắt đầu trát bên trong khi phía trên cửa phòng cần trát đã thi công xong hai lần sàn và đảm bảo cho nước mưa không chảy xuống được.

Làm xong các vách ngăn; khung cửa ở các tấm vách đã được lắp xong và phải bọc giấy bảo hộ.

Đặt xong các trang bị về điện, nước, hơi v. v. . . các thiết bị ngầm.

Đã lắp kín các đường rãnh trong tường, sàn sau khi lắp đặt các thứ trang bị.

Muốn trát phía ngoài nhà cần phải làm xong phần đua ra của mái và phải lắp xong máng nước và ống dẫn nước đảm bảo thoát được nước trên mái.

Vật liệu dùng cho công việc trát

Trong thi công trát, cần dùng hai loại vật liệu:

Một loại gồm những thứ vật liệu để pha trộn vữa như chất kết dính, các loại cát, các thứ màu, phụ gia của vữa; một loại vật liệu khác gồm có các thứ dùng để chuẩn bị mặt trát như lưới thép mạ kẽm 0,5 - 0,8mm, dây thép 1,5 - 2mm để buộc, gỗ nẹp 24 X 38mm, đinh v. v. . .

Những vật liệu dùng pha trộn vữa

Chất kết dính

Để pha trộn vữa trát, cần dùng các loại chất kết dính như: Vôi, xi măng và thạch caoỗ

Vôi:

+ Vôi đưa đến công trường phải đạt tiêu chuẩn chất lượng; vôi không có lẫn những cục sống, không được có quá 10% tạp chất. Vôi cục tốt có màu trắng, ít mảnh vụn, cục vôi nhẹ xốp, mặt mịn.

+ Vôi cục đưa về công trường cần phải che đậy cần thận và cần được tôi càng sớm càng tốt vì đé lâu nó hút ẩm và giảm chất lượng.

+ Vôi tôi thủ công cần phải để ít nhất 60 ngày mới dùng trát được, nếu muốn dùng sớm hơn 60 ngày, phải đánh hồ vôi loãng ra và lọc qua lưới có mắt lmm để loại bỏ những hạt vôi còn sống. Nếu trong vữa trát còn những cục vôi nhỏ thì khi gặp nước mưa hay không khi ẩm, các cục vôi ấy sẽ tiếp tục nở ra và rơi khỏi lớp vữa trát, để lại rất nhiều những lỗ hổng trên bề mặt lớp trát rất khó sửa chữa. Công ty TNHH hóa chất xây dựng Phương Nam  gọi hiện tượng này là lớp trát bị nổ.

+ Pha chế vữa trát, thường dùng vôi nhuyễn cấp I (lkg vôi sống tôi được 2,2 lít vôi nhuyễn). Thông thường, ở công trường chất lượng vôi nhuyễn được thử bằng quả chùy hình nón (côn tiêu chuẩn nặng 300g). Vôi tốt có độ dẻo 12cm, quá 12cm là vôi nhão.

Xi măng:

+ Dùng làm chất kết dính chính hoặc dùng để phụ thêm cho vữa vôi. Tất cả các loại xi măng poóc lăng đều dùng được để pha chế vữa trát. Xi măng sử dụng phải còn tốt, đủ phẩm chất. Không được dùng xi măng đã vón cục để pha chế vữa.

+ Thông thường, xi măng còn tơi, sờ vào thấy mát tay là phẩm chất còn tốt.

+ Xi măng để quá 3 tháng (90 ngày) kể từ ngày sản xuất, phải đem thử lại phẩm chất trước khi dùng.

Thạch gao:

+ Cũng như xi mãng, được dùng làm chất kết dính chính hoặc làm phụ gia cho vữa vôi. Thạch cao loại tốt dùng cho vữa thạch cao và vữa vôi - thạch cao để trát lớp mặt (trang trí); thạch cao loại kém hơn dùng để trộn các thứ vữa trát lớp chuẩn bị, lớp đệm.

+ Không được dùng thạch cao trộn vữa trát cho phía ngoài nhà và cho các buồng có độ ẩm cao hơn 60%.

Cốt liệu

Đối với vữa trát thông thường, cốt liệu thường dùng là cát. Khi trát lớp chuẩn bị và lớp đệm dung cát có cỡ hạt không quá 2,5mm (trong đó có 20 -r 40 % loại có cỡ hạt đến lmm); khi trát lớp mặt, cỡ hạt không quá l,2mm.

Cát trộn vữa phải sạch, không lẫn các chất bùn. Nếu cát bẩn phải rửa, sàng cho sạch trước khi dùng. Lượng bụi, bùn, đất sét không quá 5% trong đó đất sét không quá 20%, hợp chất SO, không quá 1%.

Ngoài các loại cát thiên nhiên, còn dùng các loại cát từ lò cao, cát từ gạch vụn, từ tro nhà máy điện. Cát xỉ lò cao chỉ được dùng cho lớp trát chuẩn bị. Các thứ cốt liệu này chỉ dùng để pha chế vữa mác đến 25 cho các chỗ trát không quan trọng. Phải trộn nó với 30

50% cát thiên nhiên và phải qua thí nghiệm đễ xác định độ ổn định thể tích và không có chất bẩn hóa học.

Để pha chế vữa trát trang trí, dùng bột đá và hạt đá(đá vôi, đá phen-pát, cẩm thạch v. v. . . ) với cỡ hạt 0,2 - 5 mm, lấy từ các thứ đá màu, làm cho mặt ngoài lớp vữa trát tăng vẻ đẹp.

Nước

Nước dùng trộn vữa phải sạch (thông thường là nước máy sinh hoạt). Nước thải từ các nhà máy, nước ở các đường ống tháo bẩn, nước có nhiều bùn ở ao hồ, nước có lẫn dầu mỡ, axít v. v. . . không được dùng để trộn vữa, Nước sông có nhiều phù sa cần phải để lắng thật trong mới được dùng và cần được đưa kiểm tra phẩm chất. Không được dùng nước biển để trộn vữa.

Các chất màu, các phụ gia

Để pha vữa màu, công ty TNHH hóa chất xây dựng Phương Nam  dùng các loại bột đá màu và thêm các chất màu (các loại ô-xít, đất sét màu v. v. . . ). Các chất màu này, khi trộn vào vữa, phải chống được ánh sáng (không bị phai màu) và không bị vôi phá hủy, đồng thời không có hại cho cường độ của vữa.

Lượng các chất màu không quá 2- 6% trọng lượng xi măng trong vữa.

Đối với vữa thạch cao, cần có phụ gia làm chậm ninh kết, để kéo dài thời gian đông cứng của vữa và làm tăng được cường độ của vữa.

Đối với vữa trát nơi chịu sức ép của nước, cần có phụ gia rắn trong nước và phụ gia phòng nước.

Vữa trát

Các loại vữa trát

Để trát các công trình thông thường công ty TNHH hóa chất xây dựng Phương Nam  dùng các loại vữa sau đây:

Vữa vôi: Trộn bằng vôi nhuyễn + cát + nước, mác 2-8 dùng để trát lớp mạng trần nhà, trát tường bên trongỗ

Vữa tam hợp (vữa bata): Trộn bằng xi măng H-vôi nhuyễn + cát + nước; mác 8 và 10, dùng trát tường nơi ít ẩm ướt; mác 25 dùng để trát nơi ẩm ướt nhẹ; mác >50 dùng trát nơi bị ẩm ướt theo chu kỳ.

Vữa xi măng: Trộn bằng xi măng + cát + nước; mác 50 dùng trát nơi ẩm ướt; mác > 50 dùng láng nền nhà, sân, hè, trát nơi ẩm ướt; mác 80 dùng trát nơi chịu sức ép của nước, láng bể nước, hố xí tự hoại v. v. . .

Vữa thạch cao: Trộn bằng thạch cao + cát + nước, có mác 25 - 50. Vữa thạch cao - vôi trộn bằng thạch cao vôi + cát + nước, máe 10. Dùng trát trần, tường bên trong.

Vữa vôi rơm: Vôi nhuyễn + rơm băm nhỏ, dùng trát trần vôi rơm.

Ngoài ra, còn có cát loại vữa trát trang trí như:

Vữa màu: Pha trộn bằng xi măng + bột đá + bột màu + nước.

Vữa gờranitô: Trộn bằng xi măng + hạt đá + bột màu + nước.

Đối với các yêu cầu đặc biệt như phòng cháy, chống a-xít, chống mòn v. v. . . , người. ta dùng các loại vữa:

Vữa chịu nhiệt: Trộn bằng xi măng xỉ quặng + bột sa mốt + cát vàng nhỏ, chịu được 1230 - 1270°C; trộn bằng xi măng super + bột sa mốt + cát vàng nhỏ chịu được từ (1080°c đến 1211 °C).

Vữa chịu axít: Pha trộn bằng bột thạch anh + cát thạch anh + thủy tinh nước + thuốc trừ sâu Na2SiF6.

Vữa chống mòn: Trộn bằng xi măng poóclãng + phoi thép + cát vàng + nước.

Vữa phải đạt những yêu cầu vể độ để o, cường độ chịu nén (mác vữa), độ đồng đều, tính giữ nước v. v. . .

Yêu cầu về độ dẻo của vữa là một điểm rất quan trọng. Độ dẻo phải thích hợp với thao tác: Nếu độ dẻo bé quá (vữa khô) thì khó trát, năng suất giảm , ngược lại nếu độ dẻo lớn quá (vữa nhão) lớp trát sẽ chảy, đông kết chậm, độ dính kết kém, co ngót nhiều.

Muốn vữa có chất lượng tốt, việc pha trộn phải làm cần thận. Các thứ phối liệu phải cân đong chính xác: đối với xi măng độ sai lệch cho phép trong giới hạn 1%, đối với cát thì trong giới hạn 5%.

Vữa trộn xong, các phối liệu phải hòa lẫn đồng đều chất kết dính phải khuyếch tán dều đặn và bao bọc xung quanh các hạt cát. Để đạt được độ đồng đều, cần theo đúng quy trình pha trộn các loại vữa sau đây.

Trộn vữa vôi thì pha hòa vôi nhuyễn với nước thành vữa vôi rồi mới trộn vào cát.

Khi trộn vữa bata, trộn khô cát và xi măng cho đều rồi mới đổ vữa vôi vào. Nếu trộn bằng máy thì cho vôi nhuyễn và nước vào máy trộn trước rồi mới đổ cát và xi măng vào sau.

Trộn vữa xi măng phải trộn khô cát và xi măng cho đều rồi mới đổ nước vào. Nếu trộn máy thì đổ tất cả vào cùng một lúc. Thòi gian trộn vữa bằng máy, kể từ lúc đổ xong các phối liệu vào máy trộn, không được ít hơn 2 phút.

Khi trộn vữa bằng tay, phải dùng xẻng, cuốc, cào răng đánh ngang đánh dọc nhiều lần cho đều. Thời gian trộn, kể từ lúc bắt đầu đánh, không dược ít hơn 3 phút.

Cần phải tính khối lượng vữa sát với tiến độ trát, sao cho vữa đã trộn phải dùng hết trưóc khi nó bắt đầu dông cứng. Vữa xi mãng, vữa có pha xi măng không được để quá 1 giờ kể từ lúc trộn xong. Vữa vôi (không có xi mãng) không nên để quá 2 giờ kể từ lúc trộn xong.

Vữa thạch cao đông cứng rất nhanh, vì thế chỉ nên pha trộn từng khối lượng nhỏ vừa dủ để dùng.

Liều lượng pha trộn vữa

Liều lượng pha trộn vữa được xác định tùy theo mác vữa, loại trát, độ ẩm của môi trường, những điều kiện riêng của công trình v. v. . . (xem tỉ lộ pha trộn trong định mức vật liệu hiện hành).

Thông thường, lượng chất kết dính tăng lên theo mác vữa, vữa mác cao thì cần nhiều xi măng hơn. Ví dụ: Mỗi lnr vữa vôi - xi măng mác 8 cần 68kg xi măng P300, còn đối với mác 25 thì cần 131kg xi măng; hay lm3 vữa tam hợp mác 30 cần 241kg xi măng, còn mác 50 thì cần 335kg xi măng. Trước khi pha trộn cần tra định mức vật liệu hiện hành và tính ra lượng vật liệu cho từng mẻ trộn cụ thể.

Cần lưu ý: Khi đông cứng trong không khí, xi măng co ngót lại và có thể phát sinh nứt nẻ trên bề mặt của lớp vữa trát. Cho nên, để tránh tác hại ấy, không nên dùng xi măng quá nhiều cho các lớp vữa trát lộ ra không khí. Ngược lại, đối với vữa trát nơi ẩm ướt thì dùng liều lượng xi măng cao hơn.


Link Đọc file PDF hoặc tải file pdf về máy tính
XDTC