Chủng vi khuẩn
Các chủng vi khuẩn sử dụng trong nghiên cứu này được phân lập từ các mẫu lâm sàng thu thập từ bệnh nhân. Tổng cộng có 301 mẫu lâm sàng vi khuẩn gram dương, bao gồm enterococci (n=100), staphylococci (n=102), và streptococci (n=99), đã được thử nghiệm. Các mẫu vi khuẩn này được thu thập từ nhiều khu vực khác nhau ở Hoa Kỳ và Châu Âu, đảm bảo sự đại diện rộng rãi về mặt địa lý. Khoảng 50% mỗi loài vi khuẩn được lấy từ kho dữ liệu giám sát của Eurofins (Eurofins Medinet, Anti-Infective Services, Herndon, VA). 50% còn lại của các chủng được chọn từ một bộ sưu tập sử dụng trong một thử nghiệm lâm sàng đánh giá oritavancin, cung cấp một mẫu đại diện đa dạng và có liên quan về mặt lâm sàng của các chủng vi khuẩn.
Thuốc
Các tác nhân kháng khuẩn sau đây đã được sử dụng trong nghiên cứu này:
Oritavancin diphosphate: Được cung cấp bởi Targanta Therapeutics (Cambridge, MA). Oritavancin là một kháng sinh glycopeptide có hoạt tính chống lại vi khuẩn gram dương.
Vancomycin hydrochloride: Mua từ Sigma-Aldrich (St. Louis, MO). Vancomycin là một kháng sinh glycopeptide khác thường được sử dụng trong điều trị nhiễm trùng do vi khuẩn gram dương gây ra.
Teicoplanin: Được cung cấp bởi Sequoia Research Products Limited (Pangbourne, Vương quốc Anh). Teicoplanin cũng là một kháng sinh glycopeptide tương tự như vancomycin, có hoạt tính chống lại các vi khuẩn gram dương.
Ciprofloxacin hydrochloride: Được mua từ MP Biomedicals (Solon, OH). Ciprofloxacin là một kháng sinh fluoroquinolone được sử dụng làm đối chứng trong nghiên cứu.
Thu hồi Oritavancin từ các tấm Microtiter
Việc thu hồi oritavancin từ các tấm microtiter được đánh giá trong điều kiện mô phỏng các thử nghiệm pha loãng trong nước canh. Để đạt được điều này, oritavancin diphosphate được đánh dấu phóng xạ [14C] với hoạt độ cụ thể là 53 mCi/mmol và ciprofloxacin được đánh dấu phóng xạ [14C] với hoạt độ cụ thể là 20 mCi/mmol (cả hai đều được cung cấp bởi Moravek Biochemicals and Radiochemicals, Brea, CA) đã được sử dụng.
Các loại thuốc được đánh dấu phóng xạ được hòa tan ban đầu trong nước hoặc 0,002% polysorbate 80 trong nước. Các dung dịch này sau đó được pha loãng thêm trong nước canh Mueller-Hinton được điều chỉnh cation (CAMHB) hoặc CAMHB bổ sung 2% máu ngựa bị ly giải (LHB) trong điều kiện có và không có 0,002% polysorbate 80. Các dung dịch pha loãng sau đó được phân phối vào các tấm microtiter polystyrene 96 giếng (Sensititre, số sản phẩm S-4100; TREK Diagnostic Systems).
Không có tế bào vi khuẩn nào được đưa vào các thử nghiệm này để tập trung vào việc thu hồi thuốc từ các tấm. Việc thu hồi được theo dõi bằng cách đếm phóng xạ (MicroBeta TriLux 1450; Perkin-Elmer) của dịch nổi tại các thời điểm khác nhau. Các lượng phóng xạ còn lại được so sánh với lượng phóng xạ đầu vào tại thời điểm ban đầu, cho phép định lượng việc thu hồi oritavancin theo thời gian.
Phương pháp này đảm bảo rằng các điều kiện mô phỏng các thử nghiệm pha loãng trong nước canh, cung cấp những hiểu biết sâu sắc về độ ổn định và thu hồi oritavancin trong các điều kiện thí nghiệm.