Việc thải các chất thải công nghiệp không được xử lí, thất thoát dầu và các hóa chất khác do sự cố vào các con sông và hệ thống cung cấp nước ngầm đã làm bẩn các nguồn nước uống, cũng như làm chết cá và vi sinh vật vốn được nhân dân địa phương đánh bắt. Các chất khí như Hidro có thể tác dụng với ôxi trong cơ thể sống gây ra sự thiếu ôxi trong mô, hydrogen cyanide ức chế việc sử dụng oxi. Những nhóm chất này đều là những chất gây ngạt. Ngoài ra, các chất như ete sẽ ức chế hoạt động của hệ thần kinh trung ương dẫn đến gây mê. Chất độc toàn thân tác động lên cơ quan hoặc các mô trong cơ thể. Ví dụ như: CCl4 tác động lên gan, HgCl2 tác động lên thận, CS2 tác động lên hệ thần kinh; benzen tác động lên các tế bào tủy, xương và gây bệnh bạch cầu. Nhiều chất gây nguy hại cho di truyền, ví dụ gây đột biến gen và ung thư
Đối với môi trường
Những vấn đề tác động môi trường cơ bản liên quan đến việc xử lý chất thải nguy hại (bao gồm chôn lấp, đốt,…) không đúng cách. Việc chôn lấp chất thải độc hại không đúng cách có liên quan đến tác động tiềm tàng đối với nước mặt và nước ngầm. Ở Việt Nam, thường những nguồn nước này được dùng làm nước uống, sinh hoạt gia đình, phục vụ nông nghiệp và nuôi trồng thủy sản. Bất cứ sự ô nhiễm nào đối với các nguồn này đều gây tác động nghiêm trọng đến con người cũng như môi trường.
Việc đốt chất thải độc hại nếu không tuân theo những qui tắc nghiêm ngặt thì sẽ gây ra hậu quả rất nghiêm trọng cho môi trường không khí, đất và nước. chất dễ cháy nổ có thể phá huỷ vật liệu dẫn đến phá huỷ công trình; chất rắn dễ cháy thường giải phóng các sản phẩm cháy độc hại; những chất lây nhiễm gây ra nguy cơ lan truyền dịch bệnh; các chất phóng xạ làm tăng mức phóng xạ trong môi trường, gây ra nhiều hậu quả nặng nề; chất ăn mòn có tác hại làm hư hại vật liệu.
Môi trường đất
Trong cả ba khu vực nghiên cứu: Miền Bắc, Miền Nam và Miền Trung Việt Nam, các chất thải rắn nguy hại bị trộn lẫn với các chất thải rắn trơ của nhà máy và nói chung được thu gom qua hợp đồngvới công ty môi trường đô thị. Ở Hà Nội, phần lớn chất thải nguy haị ở dạng rắn đều bị trộn lẫn với chât thải nguy hai ở dạng rắn khác và được thu gom bởi công ty môi trường đô thị. Ở những vùng kinh tế phía Nam, rất nhiều chất thải độc hại tương ứng cũng được thu gom bởi công ty dịch vụ công cộng và một số người thu gom khác. Tất cả chúng đều được đưa đến bãi rác mà hầu như không được phân loại ngay tại nguồn tạo nên một lượng rác khổng lồ có tính độc cao được chôn lấp trong đất.
Chất thải độc hại được trộn chung với chất thải công nghiệp và chất thải đô thị khác thường được chôn lấp trong những bãi rác kém chất lượng, nếu không nói kĩ thuật vận hành rất tồi, các thiết bị xử lí rác thường không đạt tiêu chuẩn (như xe ép rác, phương tiện vận chuyển rác…) cộng với qui trình vận hành xử lí không tuân theo những qui tắc nghiêm ngặt sẽ gây ra những tác động rất lớn đối với môi trường đất.
Công nghiệp khai thác khoáng sản cũng làm ô nhiễm môi trường đất nghiêm trọng. Nhiều diện tích đất được dùng để khai thác mỏ đã bị ô nhiễm nghiêm trọng bởi lớp đất đá bị xáo trộn và các kim loại nặng của công nghiệp khai khoáng làm cho đất canh tác bị thu hẹp.
Môi trường nước
Nước mặt: Nước mặt bao gồm nước ở sông, hồ chứa, kênh, hồ ao… Đối với Việt Nam nguồn nước mặt rất quan trọng trong việc phục vụ đời sống của nhân dân như ăn uống, sinh hoạt, sản xuất nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản…Tuy nhiên chúng cũng là nơi tiếp nhận những nguồn ô nhiễm từ nước thải sinh hoạt nông nghiệp, công nghiệp, trong đó yếu tố nguy hại cũng tồn tại khá lớn.
Nước thải từ khu công nghiệp ở Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh cũng như ở các khu công nghiệp khác đều được thải vào rất nhiều kênh rạch, sông ngòi là những hệ thống thoát nước chung mà hầu như không được xử lí. Hiện nay, tất cả những nguồn nước này đã bị ô nhiễm bởi chất thải công nghiệp cũng như chất lỏng thải từ sinh hoạt. Bộ Tài nguyên môi trường đã ước tính rằng nước thải công nghiệp ở Thành phố Hồ Chí Minh vào khoảng 20-30% tổng lưu lượng dòng chảy trong các sông mà chủ yếu từ nguồn công nghiệp tinh chế hóa chất và chế biến thực phẩm. Ở khu công nghiệp Biên Hòa 1 có hơn 60 nhà máy, mỗi nhà máy thải vào sông Đồng Nai khoảng 200 ngàn m3 nước thải mỗi ngày với nồng độ ô nhiễm lớn; điển hình như công ty Cogico mỗi ngày thải 15000 m3 nước nồng độ COD vượt 12,4 lần; nhà máy đường Biên Hòa mỗi ngày thải 32000 m3 nước có nồng độ COD vượt 18 lần tiêu chuẩn cho phép đối với nước thải công nghiệp loại B. Trong khi đó, sông Đồng Nai được chọn là một trong những nguồn cung cấp nước chủ yếu cho Thành phố Hồ Chí Minh. Ngoài ra, nguồn nước mặt còn bị ô nhiễm bởi nước rò rỉ từ quá trình ép rác, bãi chôn lấp rác kém chất lượng.
Nước ngầm: Nói chung chất lượng nước ngầm ở Việt Nam vẫn thuộc loại tốt trừ một số nơi bị nhiễm sắt mangan cao và nhiễm nước biển ở những vùng ven biển. Hiện nay, chỉ khoảng 15% nước ngầm được khai thác cung cấp vào hệ thống nước máy vì nước mặt rất sẵn có và rẻ. Tuy nhiên, nhu cầu nước ngầm đang tăng lên ở những nơi thiếu nguồn nước mặt như Đồng Nai, đồng bằng sông Cửu Long và những nơi mà nguồn nước mặt có dấu hiệu ô nhiễm.
Nhiễm bẩn nước ngầm ở khu đô thị, đặc biệt là Hà Nội, ngày càng nghiêm trọng, nơi mà toàn bộ dân cư phải dựa vào nguồn nước ngầm để phục vụ cho ăn uống và sinh hoạt. Tại Hà Nội đã có dấu hiệu nồng độ ô nhiễm phân, nitơ, vô cơ và hữu cơ cao ở một số giếng nước.
Tại Thành phố Hồ Chí Minh, bãi rác Đông Thạnh là khu vực đổ rác không có hệ thống chống thấm, hệ thống thu gom và xử lí nước rác. Mặc dù, sự đóng góp của chất thải độc hại công nghiệp chưa được định lượng nhưng nó cung cấp một cảnh báo về tác động xấu của việc chôn rác thiếu kiểm soát nước ngầm ở đây đã bị ô nhiễm không thể sử dụng làm nước ăn uống được nữa.
Tại một số nhà máy, khi khảo sát chất thải độc hại, đã thấy Bitum và nhựa axit chảy tràn rất nhiều. Người ta thông báo rằng, chưa có thị trường cho loại Bitum này do đó loại vật liệu này cứ được đổ hay lưu giữ trong những thùng thép bị rò rỉ do bị ăn mòn ngay trong nhà máy. Nước ngầm ở khu vực này chắc chắn đã bị nhiễm xyanua, phenol và nhiều hydrocacbon. Tuy nhiên, không có số liệu quan trắc để khẳng định mức độ của vấn đề. Thêm vào đó, các công ty thép ở Việt Nam đã đổ xỉ chứa Fe, Zn, Cd, Pb… vào đất gây nguy cơ ô nhiễm kim loại nặng nhất là tác động trực tiếp vào nguồn nước ngầm.
Môi trường không khí
Ở nhiều cơ sở sản xuất, dung môi nói chung được thải bằng cách cho bay hơi; những trường hợp quản lý chất thải độc hại theo cách này đã gây ô nhiễm không khí nghiêm trọng. Ngoài ra, nhiều chất thải từ quá trình sản xuất công nghiệp ở dạng khí độc hại cũng được thải trực tiếp ra môi trường: khí thải từ các phương tiện giao thông, từ quá trình phân hủy chất hữu cơ trong chôn lấp rác, … cũng gây ô nhiễm không khí.
Kết quả khảo sát năm 1998, 1999 của 17 khu công nghiệp cũ của các thành phố: Hà Nội, Hải Phòng, Lào Cai, Vinh, Hạ Long, Huế, Đà Nẵng, Biên Hòa, Thành phố Hồ Chí Minh cho thấy, ô nhiễm bụi trong không khí phổ biến vượt chỉ số tiêu chuẩn cho phép từ 1,5-3 lần (chỉ số tiêu chuẩn cho phép nồng độ bụi là 0,2mg/m3); một số khu dân cư ở cạnh khu công nghiệp cũ bị ô nhiễm bụi lớn hơn tiêu chuẩn cho phép từ 2 - 4 lần như khu vực quanh nhà máy xi măng Hải Phòng, VICASA (Biên Hòa), xi măng Đà Nẵng. Nồng độ SO2 ở khu vực nhà máy xi măng Hải Phòng, Tân Bình, Phước Long (Thành phố Hồ Chí Minh) vượt chỉ số tiêu chuẩn cho phép (chỉ số tiêu chuẩn cho phép là nồng độ SO2 là 0,3mg/m3). Cụ thể:
Chất khí dễ cháy là chất gây ô nhiễm không khí ở mức độ nhẹ.
Các khí độc có thể gây ô nhiễm không khí nặng.
Các tác nhân oxy hoá và các chất ăn mòn cũng là thành phần đóng góp đáng kể vào sự ô nhiễm không khí.