Phương Nam Co LTD
Cung cấp chất hoạt động bề mặt, dầu bôi trơn Korea
© 26/4/2024 - Vietnam12h.com Application
Phản ứng tổng hợp phân đạm urê

Amoniac lỏng nạp liệu vào xưởng đạm urê, từ xưởng amoniac tương ứng, được lọc qua các thiết bị lọc FL-1002A/B, sau đó đi vào tháp thu hồi amoniac T-1005 và được tập trung trong bồn chứa amoniac V-1005. Từ V-1005, amoniac được bơm lên áp suất 22 bar bằng bơm tăng cường amoniac P-1005A/B. Một phần amoniac này được đưa tới tháp hấp thụ trung áp T-1001, phần còn lại đi vào cụm tổng hợp cao áp.

Amoniac vào cụm tổng hợp được bơm bằng bơm cao áp P-1001A/B, lên áp suất khoảng 220 bar. Trước khi vào tháp tổng hợp, amoniac được gia nhiệt trong thiết bị gia nhiệt sơ bộ E-1007, và được sử dụng làm lưu chất đẩy trong bơm phun cacbamat J-1001, tại đây cacbamat từ bình tách cacbamat V-1001 được đẩy lên áp suất tổng hợp.

Hỗn hợp lỏng amoniac và cacbamat đi vào đáy tháp tổng hợp đạm urê, ở đây hỗn hợp này sẽ phản ứng với dòng CO2 nạp liệu. CO2 từ xưởng amoniac ở áp suất 0.18 bar và nhiệt độ 45oC đi vào máy nén PK-1001 và được nén đến áp suất 157 bar.

Một lượng nhỏ không khí được đưa vào dòng CO2 ở đầu vào máy nén PK-1001 để thụ động hóa các bề mặt thép không rỉ của các thiết bị cao áp, do đó bảo vệ chúng khỏi ăn mòn do các chất phản ứng và sản phẩm phản ứng.

Các sản phẩm phản ứng ra khỏi tháp tổng hợp chảy vào phần trên của thiết bị stripper E-1001, hoạt động ở áp suất 147 bar. Đây là thiết bị phân hủy kiểu màng trong ống thẳng đứng, trong đó lỏng được phân phối trên bề mặt gia nhiệt dưới dạng màng và chảy xuống đáy nhờ trọng lực. Thực tế, đây là thiết bị trao đổi nhiệt vỏ ống thẳng đứng, với môi trường gia nhiệt ở phía vỏ, và đầu ống được thiết kế đặc biệt cho phép sự phân phối đồng đều dung dịch đạm urê. Thực tế, mỗi ống có một đầu phân phối kiểu lồng (ferrule) được thiết kế để phân phối đều dòng lỏng xung quanh thành ống dưới dạng màng. Các lỗ của đầu phân phối hoạt động như các đĩa; đường kính của các lỗ và đầu phân phối sẽ điều khiển lưu lượng. Khi màng lỏng chảy, nó được gia nhiệt và sự phân hủy cacbamat và bay hơi bề mặt xảy ra. Hàm lượng CO2 trong dung dịch giảm do stripping NH3 khi NH3 sôi. Hơi tạo thành (thực chất là NH3 và CO2) bay lên đỉnh ống. Nhiệt phân hủy cacbamat được cung cấp nhờ sự ngưng tụ hơi bão hòa 21.8 bar.

Dòng hỗn hợp giữa khí từ đỉnh thiết bị stripper, và dung dịch thu hồi từ đáy tháp hấp thụ trung áp T-1001, đi vào các thiết bị ngưng tụ cacbamat E-1005A/B, ở đây chúng được ngưng tụ và được tuần hoàn về tháp tổng hợp R-1001 thông qua bơm phun cacbamat J-1001.

Ngưng tụ khí quá trình ở áp suất cao (khoảng 144 bar) cho phép tạo ra hơi bão hòa 4.9 bar ở phía vỏ của thiết bị ngưng tụ cacbamat thứ nhất E-1005A và hơi 3.4 bar ở phía vỏ của thiết bị ngưng tụ cacbamat thứ hai E-1005B.

Từ đỉnh của bình tách cacbamat V-1001, khí không ngưng bao gồm khí trơ (không khí thụ động, khí trơ trong dòng CO2 từ giao diện) chứa một lượng nhỏ NH3 và CO2 được đưa trực tiếp vào đáy thiết bị phân hủy trung áp E-1002.


Link Đọc file PDF hoặc tải file pdf về máy tính